Trang

Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2012

Lịch sử Đảng bộ huyện Mai Sơn - tỉnh Sơn La

Đây là bản thảo lần 1 của công trình "Lịch sử Đảng bộ Mai Sơn" giai đoạn 1991 - 1995 của Dương Hà Hiếu, mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn
--------------------------------------


II. ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ, TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, GIỮ VỮNG AN NINH CHÍNH TRỊ QUỐC PHÒNG VÀ TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI (1991 – 1995)

1. Đảng bộ huyện Mai Sơn tiến hành đại hội đại biểu  lần thứ XIV và mục tiêu kế hoạch 5 năm giai đoạn 1991 – 1995
Dưới ánh sáng của đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khởi xướng, nền kinh tế nước ta bước đầu có những chuyển biến quan trọng và thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng trầm trọng kéo dài, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, sự sụp đổ mô hình XHCN ở Liên Xô và các nước khu vực Đông Âu trong những năm 1990 - 1991 đã gây cho nước ta những đảo lộn lớn, đột ngột về thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá và nhiều chương trình hợp tác kinh tế cũng như những hợp đồng về lao động. Trong một thời gian ngắn, nước ta phải tìm cách mở rộng quan hệ buôn bán từ các thị trường truyền thống sang các thị trường mới, nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên, trong khi một số nước tiếp tục chính sách bao vây cấm vận kinh tế. Trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trong kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, làm cho "đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội... nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết"[1]. Trong khi đó nhân cơ hội sự tan rã của hệ thống các nước XHCN, các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước ra sức hoạt động chống phá điên cuồng và vô cùng xảo quyệt nhằm âm mưu thực hiện "diễn biến hoà bình", kích động việc thực hiện đa nguyên đa đảng chính trị nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với các nước XHCN còn lại trong đó có Việt Nam; truyền bá các luồng tư tưởng, văn hoá đồi trụy, độc hại, đưa lực lượng gián điệp, biệt kích nhằm tìm cách câu kết với bọn phản động cùng các phần tử xấu trong nước dáo diết hoạt động nhằm lật đổ chế độ, ... Điều này đã gây hoang mang lo lắng và dao động về tư tưởng cho không ít bộ phận cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân đối với công cuộc đổi mới kinh tế, văn hoá xã hội mà Đảng ta đang tiến hành.
Những khó khăn đó của cả nước đã tác động mạnh mẽ đến công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội cũ từ nền kinh tế bao cấp kế hoạch hoá của Sơn La trong đó có huyện Mai Sơn sang mô hình kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm 1991 – 1995, Mai Sơn còn có những khó khăn riêng đặc biệt gay gắt cả về đời sống kinh tế và xã hội. Trong năm 1990 – 1991, Mai Sơn phải hứng chịu nhiều hậu quả của thiên tai hạn hán làm cho sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ mất trắng. Tính đến cuối năm, tổng sản lượng lương thực của Mai Sơn chỉ đạt 46% so với kế hoạch đặt ra. Điều này đã làm cho toàn thể nhân dân trong huyện đứng trước nguy cơ thiếu đói trầm trọng. Bên cạnh đó, Mai Sơn còn phải đứng trước những vấn đề phức tạp khá nhức nhối khác như: vấn đề tranh chấp đất đai sau khi thực hiện tư hữu hoá; những tệ nạn xã hội phức tạp manh nha phát triển trong quá trình chuyển đổi và điều hành nền kinh tế - xã hội theo cơ chế thị trường; vấn đề di dân tự do của đồng bào Mông; vấn đề phá rừng đốt nương làm rẫy dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên và ảnh hưởng trực tiếp đến lao động sản xuất; vấn đề an ninh quốc phòng biên giới giữa huyện Mai Sơn với huyện ??? của tình Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào); đặc biệt là sự lãnh đạo điều hành nền kinh tế, văn hoá – xã hội của địa phương sang cơ chế quản lý mới gặp rất nhiều khó khăn.
Những thuận lợi căn bản mà Đảng bộ và nhân dân huyện Mai Sơn có được đó chính là sự chỉ đạo trực tiếp cụ thể của Tỉnh uỷ về những vấn đề lớn trọng tâm nhằm tháo gỡ những khó khăn phức tạp. Ngoài ra, Mai Sơn cũng có những tiềm năng to lớn từ tài nguyên lâm thổ sản và tài nguyên con người chưa được huy động sử dụng một cách triệt để và lợi thế hơn nhiều huyện khác trong tỉnh về hệ thống giao thông cả đường thuỷ và đường bộ nối liền giữa Mai Sơn với các huyện các tỉnh bạn.
Trước những khó khăn và thuận lợi đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Mai Sơn đã phát huy nội lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần nhằm sớm thoát ra khỏi tình trạng khó khăn phức tạp, tạo cơ sở tiền đề cho sự phát triển lâu dài và bền vững của huyện.
Bước vào năm 1991, để khắc phục những khó khăn, đặc biệt là nguy cơ nạn đói gay gắt trước mắt, nhân dân Mai Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ một mặt đẩy mạnh khai hoang mở rộng diện tích một mặt khẩn trương dốc toàn lực vào sản xuất vụ chiêm xuân, một mặt thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 65 và Chỉ thị số 59 của Trung ương, kế hoạch của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ huyện Mai Sơn đã triển khai đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn đảng viên và nhân dân. Trên cơ sở đó, Đảng uỷ huyện Mai Sơn xúc tiến tổ chức Đại hội Đảng các cấp cơ sở nhằm tham gia góp ý cho các dự thảo văn kiện của Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII và tiến hành Đại hội đại biểu đảng bộ các cấp.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ và Huyện uỷ, Đại hội Đảng bộ cơ sở vòng 1 của các chi bộ đảng Mai Sơn đã được tiến hành một cách chu đáo và hoàn thành tốt đẹp với kết quả: một trăm phần trăm các đơn vị cơ sở Đảng đã triển khai và thực hiện chỉ thị 33 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, trong đó 2/3 đơn vị cơ sở toàn huyện thực hiện nghiêm túc với 2339 đảng viên (trong tổng số 2592 đảng viên) được rà soát phân loại (chiếm 90%), 1949 đồng chí đảng viên được xét đủ tư cách (chiếm 83%) trong đó đủ tư cách xuất sắc có 397 đồng chí (chiếm 17%). Số đảng viên đặt trong diện xem xét tư cách là 280 đồng chí (chiếm 12%). Số đảng viên bị gia hạn phấn đấu sửa chữa trong vòng 3 tháng đến 6 tháng lên đến 229 đồng chí (chiến 8.2%). Diện đảng viên vi phạm bị kỷ luật, cơ sở đảng các cấp đề nghị Huyện uỷ xử lý kỷ luật gồm có 42 đồng chí (trong đó khiển trách 3 đồng chí; cảnh cáo 14 đồng chí; xoá tên khai trừ khỏi tổ chức Đảng lên đến 8 đồng chí; cách chức nhiệm vụ 4 đồng chí: 1 đồng chí là Bí thư Đảng uỷ, 2 đồng chí là Bí thư Chi bộ, 1 đồng chí là Thường vụ Đảng uỷ). Qua công tác tổ chức Đại hội cơ sở vòng 1, ba xã của huyện Mai Sơn là Chiềng Mung, Phiêng Pằn, Cò Nòi đã được kiện toàn về mặt tổ chức cơ sở Đảng. Riêng Huyện uỷ có tổng số 38 đồng chí đảng viên. Trong quá trình tiến hành Đại hội cơ sở vòng 1, Huyện uỷ đã thực hiện nghiêm túc quá trình kiểm tra tư cách và phân loại đảng viên với kết quả là 35/38 đồng chí đủ tư cách, 14 đồng chí đủ tư cách xuất sắc. Trong 4 đồng chí còn lại thì 3 đồng chí thuộc diễn xem xét tư cách và 1 đồng chí đang có sai phạm chờ kỷ luật của cấp trên.
Sau khi phân loại đảng viên, theo chỉ thị 33, toàn huyện Mai Sơn có 7 đơn vị cơ sở đảng đạt tiêu chí trong sạch vững mạnh, các chi bộ cơ sở đảng được củng cố, nâng cao uy tín, chất lượng và năng lực hoạt động đồng thời nâng cao sức chiến đấu. Các chi bộ đảng ngày càng thể hiện rõ vị trí của mình trước dân, các đảng viên gắn bó chặt chẽ và phát huy năng lực, uy tín của mình với nhân dân, sớm nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của quần chúng với các vấn đề quan trọng của tỉnh và của huyện. Trong 66 đơn vị cơ sở đảng toàn huyện, 64 đơn vị đã bầu được đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV với 199 đồng chí, trong đó: 139 đồng chí thuộc khối nông thôn; 60 đồng chí thuộc khối cơ quan. Tỉ lệ đảng viên là nữ là 27/199 đồng chí…
Từ kết quả của Đại hội đảng cơ sở vòng 1, Đảng bộ huyện Mai Sơn tiếp tục chỉ đạo các cơ sở đảng tiến hành Đại hội cơ sở đảng vòng 2 trong vòng một tháng (từ 10/09/1991 đến tháng 10/1991). Các chi bộ đảng cơ sở đã thẳng thắn phê bình và thừa nhận những thiếu sót, khuyết điểm, nhất là sự bảo thủ trì trệ, chậm đổi mới tư duy và đổi mới hoạt động lãnh đạo để thoát ra khỏi tình trạng sản xuất tự cung tự cấp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và cơ cấu mùa vụ. Đồng thời, các chi bộ Đảng cơ sở đã thảo luận tập trung vào các vấn đề lớn, cấp bách và trọng tâm của huyện cũng như đóng góp sâu sắc cho các dự thảo văn kiện của Đảng. Các đảng viên cơ sở Mai Sơn đã thể hiện sự nhất trí tập trung dân chủ cao trong việc quyết tâm đổi mới tư duy, đổi mới cách làm và nhất trí cao với các chỉ tiêu mà dự thảo văn kiện Đảng đặt ra. Sau đại hội cơ sở đảng các cấp, các cấp uỷ đảng Mai Sơn đều được củng cố, nâng cao sức chiến đấu cũng như chất lượng đảng viên thêm một bước và bầu được 268 cấp uỷ, trong đó cấp uỷ mới là 114 đồng chí (chiếm 42.2%); số lượng cấp uỷ là nữ giới có 27 đồng chí (chiếm 9.6%) với kết quả là:
Trình độ văn hoá
Đảng viên
Tỉ lệ (%)
Cấp 1
29
10.8
Cấp 2
165
61.5
Cấp 3
74
27.6
Về trình độ văn hoá
Trình độ lí luận
Đảng viên
Tỉ lệ (%)
Sơ cấp
51
19.0
Trung cấp
36
13.4
Cao cấp
7
7.2
Về trình độ lí luận
Cũng thông qua đại hội cơ sở vòng 2, các chi bộ đảng đã bầu được 20 đồng chí bí thư mới, trong đó riêng ở khu vực nông thôn là 6 đồng chí. Đặc biệt, do công tác phát triển đảng được chú ý đẩy mạnh nhằm bồi dưỡng, rèn luyện lớp đảng viên kế cận mà tuổi đảng bình quân của huyện đã được trẻ hoá xuống còn 39 tuổi. Điều này đã góp phần vào công tác trẻ hoá đội ngũ đảng viên trong các chi bộ Đảng, thúc đẩy quá trình đổi mới và chuyển dịch nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở huyện Mai Sơn diễn ra thuật lợi và đạt kết quả[2].
Mặc dù vậy nhìn chung qua hai vòng tổ chức Đại hội đảng cơ sở các vẫn còn một số tồn tại, hạn chế đó là: Tổ chức đại hội cơ cở nhìn chung hoàn thành chậm hơn so với kế hoạt đã đặt ra. Vẫn còn một số cơ sở đảng chưa hoàn thành công tác kiểm tra phân loại tư cách đảng viên và nhạy bén lãnh đạo công tác giải quyết những tồn tại một cách kịp thời; Một số cơ sở đảng chưa tập hợp đợc mô hình làm ăn giỏi ở địa phương mình, một số chi bộ đảng còn lúng túng, chưa định rõ được bước đi trong việc khắc phục nạn đói, dịch bệnh và nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân, còn băn khoăn trong việc xác định loại cây mũi nhọn xoá đói giảm nghèo; Vài chi bộ cơ sở thuộc khối cơ quan đã chủ quan rút ngắn thời gian quy trình tiến hành Đại hội nên dẫn đến làm lướt ở một số khâu, chưa tạo được khí thế thật sôi nổi trong thảo luận các chủ trương kế hoạch, và hướng về đại hội đại biểu khoá XIV toàn huyện.
Trên cơ sở những thành tựu đạt được từ hai lần tổ chức Đại hội cơ sở các cấp, Đảng bộ huyện Mai Sơn tiến tới Đại hội đại biểu khoá XIV. Ban Thường vụ Huyện uỷ huyện Mai Sơn đã thành lập Ban chỉ đạo Đại hội gồm 22 đồng chí do Bí thư Huyện uỷ Trần Viết Oánh làm trưởng ban. Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng bộ huyện Mai Sơn đã nhất trí cao với các dự thảo văn kiện của Đảng gồm: "Báo cáo xây dựng Đảng" và "Sửa đổi điều lệ Đảng (sửa đổi)"; "Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ"; "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế của nước ta đến năm 2000". Đồng thời, Đại hội đảng bộ huyện Mai Sơn đã tiến hành và chỉ ra những mục tiêu phương hướng phấn đấu cho toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện, nhiệm vụ phát triển kinh tế –xã hội, giữ gìn an ninh quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh trong 5 năm (1991-1995) và đề ra các mục tiêu lớn cho kế hoạch 5 năm giai đoạn 1991 – 1995, cụ thể:
Về kinh tế, Đại hội xác định cần phải chuyển nhanh chuyển mạnh nền kinh tế bao cấp sang phát triển kinh tế chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, phá thế độc canh, tự cấp tự túc, mang lại sự chuyển dịch tích cực, rõ nét về chuyển hướng sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi, cơ cấu mùa vụ và đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong sản xuất. Để thực hiện chủ trương này, Đại hội chỉ rõ cần tập trung toàn lực nhằm phát triển 3 vùng kinh tế chiến lược gồm các xã vùng cao (gồm 2 xã là Chiềng Nơi và Phiêng Pằn), vùng lòng hồ sông Đà (gồm 2 xã là Tà Hộc, Chiềng Chăn) và đặc biệt là vùng dọc quốc lộ 6 (gồm các xã và thị trấn còn lại) và phát động toàn dân thực hiện 3 cuộc vận động lớn là: chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi sang sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường hàng hoá; triệt phá cây thuốc phiện và thực hiện không trồng thuốc phiện trên địa bàn toàn huyện; không triệt phá rừng đốt nương làm nương rẫy tràn lan.
Về chính trị, Đại hội chỉ rõ phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nhằm đảm bảo khối đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng bộ và trong cộng đồng nhân dân các dân tộc nhằm ổn định chính trị xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc nghiệp đổi mới đạt được nhiều thành tựu. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Đại hội yêu cầu các đảng viên của toàn đảng bộ phải nâng cao bản lĩnh chính trị, quán triệt đường lối chỉ đạo của đảng bộ các cấp, làm chủ tình hình và gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân trong huyện, gương mẫu nâng cao sức chiến đấu làm gương cho quần chúng nhân dân noi theo. Đồng thời, Đại hội cũng nhấn mạnh về việc cần phải chú ý xây dựng và củng cố các tổ chức hội, đoàn thể, mặt trận nhằm phát huy tính dân chủ trong nhân dân và vận động, giúp đỡ nhân dân làm kinh tế xoá đói giảm nghèo.
Về xã hội, Đại hội xác định trọng tâm là đẩy mạnh xây dựng các công trình công cộng, kiến thiết hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm mở mang phát triển về nhiều mặt phục vụ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân và làm đòn bẩy thúc đẩy phát triển văn hoá giáo dục, từng bước thực hiện quy hoạch hoá thị trấn Mai Sơn.
Về an ninh quốc phòng, Đại hội khẳng định vấn đề đảm bảo ổn  định an nnh quốc phòng là một vấn đề quan trọng đặt biệt đối với công cuộc đổi mới xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của toàn huyện. Mọi cấp mọi ngành cũng như toàn thể hệ thống chính trị đoàn thể của huyện phải luôn nâng cao nhận thức, bám sát tình hình thế giới và trong nước cũng như nắm vững những diễn biến từ các cơ sở trên địa bàn để mau chóng tìm hướng giải quyết. Các lực lượng công an, quân đội, dân phòng và các đoàn thể cùng toàn thể đảng viên phải thường xuyên luyện tập với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao. Đại hội cũng chỉ rõ, toàn huyện hàng năm phải đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân đồng thời phải nâng cao chất lượng chiến đấu cho dân quân tự vệ. Trọng điểm của công tác bảo vệ an ninh quốc phòng là bảo vệ vững chắc đường biên hữu nghị giữa nước ta và nước bạn Lào trên địa bàn huyện nhằm đảm bảo ổn định đời sống nhân dân vùng biên góp phần “chống diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch phản cách mạng trên toàn tuyến và toàn huyện, đặc biệt là những vùng nhạy cảm.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội nhấn mạnh cần phải đẩy mạnh các cuộc vận động xây dựng đảng trong các chi bộ nhằm khắc phục những yếu kém và nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng cũng như chất lượng của các đảng viên, tạo sự chuyển biến tích cực trong các cơ quan đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng. Để thực hiện chủ trương này, Đại hội chỉ ra các biện pháp trọng tâm là phải thực hiện nghiêm túc các đợt sinh hoạt chính trị về xây dựng Đảng, thường xuyên tiến hành nhiệm vụ kiểm tra cấp uỷ và đảng viên trong việc chấp hành điều lệ Đảng, tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, các khoá học nâng cao công tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế, quản lý văn hoá cho cán bộ đảng viên cốt cán và các đảng viên ưu tú.
Sau ? ngày (từ ? ngày đến ? ngày năm 1991) làm việc khẩn trương, hiệu quả, Đại hội đại biểu khoá XIV nhiệm kỳ 1991 – 1995 của đảng bộ huyện Mai Sơn đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong nhiệm kỳ lần này, đồng chí Trần Viết Oánh tiếp tục trúng cử chức vụ Bí thư Huyện uỷ. Ban Thường vụ Huyện uỷ bao gồm các đồng chí:
(phần này bổ sung toàn bộ danh sách các đồng chí tham gia nhiệm kỳ khoá XIV)
2. Đảng bộ và nhân dân huyện Mai Sơn triển khai thực hiện và hoàn thành thắng lợi nghị quyết Đại hội lần thứ XIV giai đoạn 1991 - 1995
a. Về kinh tế
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quá trình đổi mới của huyện Mai Sơn trong nhiệm kỳ khoá XIV đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển giai đoạn sau. Điều có ý nghĩa trước tiên và quan trọng nhất là đã tổ chức thực hiện đưa sự nghiệp phát triển kinh tế chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, phá thế độc canh, tự cấp tự túc, mang lại sự chuyển biến tích cực, rõ nét về chuyển hướng sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi, cơ cấu mùa vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật ... đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với thời kỳ trước đây (nhất là vùng dọc quốc lộ 6).
Trong nông nghiệp, quán triệt đường lối, chính sách của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Mai Sơn lần thứ XIV, trong sản xuất nông nghiệp, Đại hội đã yêu cầu các cấp uỷ Đảng cùng chính quyền các địa phương tập trung sức lực và trí tuệ tập thể lãnh đạo nhân dân nhanh chóng khắc phục nạn đói, thực hiện khẩn trương cơ chế khoán 10 nhằm quản lý và khai thác hiệu quả quỹ đất nông nghiệp vốn rất hạn chế đúng theo quy định. Trên cơ sở đó, Mai Sơn dần hình thành kinh tế hộ gia đình tự chủ thay thế cho mô hình làm ăn tập thể. Một số hợp tác xã làm ăn không hiệu quả cũng dần chuyển đổi mô hình hoạt động sang dịch vụ cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất hoặc được giải thể. Từ đặc điểm tự nhiên riêng biệt, Đảng bộ huyện Mai Sơn cùng các cơ sở đảng kịp thời chỉ đạo công tác chuyển đổi giống cây trồng, áp dụng những giống cây trồng ngắn ngày chịu được hạn, được sâu bệnh cho năng xuất cao. Vì vậy, tổng sản lượng lương thực toàn huyện Mai Sơn từ 17.000 tấn (năm 1991) đến năm 1994 đã tăng lên trên 20.000 tấn, đạt chỉ tiêu Đại hội đề ra. Với năng xuất sản xuất lương thực tăng nhanh, Mai Sơn dần từng bước thoát ra khỏi tình trạng phải xin tương trợ từ trung ương mà chỉ còn hiện tượng đói giáp hạt và khó khăn vùng đồng bào dân tộc thuộc khu vực III của huyện.
Phục vụ cho sản xuất của nhân dân, đảm bảo nâng cao năng xuất, Mai Sơn đã sửa chữa và xây dựng mới 10 công trình thuỷ lợi kiên cố giá trị hơn 3 tỷ đồng. Diện tích lúa xuân tăng từ 10 héc ta năm 1991 lên đến 282 héc ta vào năm 1995 cho năng xuất gấp 2,5 lúa chiêm. Năng xuất vụ lúa mùa cũng đạt từ 30 tạ một héc ta lên 37,3 tạ một héc ta. Diện tích ngô chính vụ 90% được gieo trồng giống mới, năng xuất bình quân đạt 35 tạ một héc ta, tăng 15 tạ một héc ta so với giống cũ. Diện tích lúa nương giảm từ 4.500 héc ta xuống chỉ còn khoảng 2.000 héc ta. Nhằm tăng thêm năng xuất, Đảng uỷ Mai Sơn đã lãnh đạo nhân dân thực hiện chuyển mạnh tư duy canh tác cũ, đưa giống hoa màu hoặc lương thực khác thay thế cây lúa xuống ruộng 1 vụ. Nhờ đó, diện tích canh tác được tận dụng mở rộng thúc đẩy sản lượng ngô, đậu hàng hoá hàng năm đạt từ 5.500 tấn trở lên.
Thế mạnh về phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả ở Mai Sơn cũng được Đảng bộ huyện chỉ đạo các cơ sở đảng và các cấp chính quyền tập trung giải quyết để nâng cao chất lượng, tăng thu nhập và cung cấp cho thị trường tiêu thụ. Diện tích được mở rộng, khối lượng sản phẩm hàng hóa tăng đáng kể trở thành hướng làm giàu chính của các hộ gia đình trong vùng. Diện tích cây ăn quả khoảng 2.000 ha và đã cho khối lượng sản phẩm hàng hoá 2.000 tấn một năm.
Cây công nghiệp được xác định là cây trồng mũi nhọn trong xoá đói giảm nghèo là dâu tằm tơ cũng tăng vượt diện tích đề ra 1.1000 héc ta so với 1000 héc ta Đại hội đề ra. Sản lượng kén tằm hàng hoá đạt trên 30 tấn. Bên cạnh đó, diện tích mía đường từ 350 ha lên 800 ha với khối lượng sản phẩm hàng hoá 3.000 tấn một năm. Diện tích chè được ổn định (450 ha) có sản phẩm xuất khẩu chè đen 95 tấn một năm và chè xanh 35 tấn một năm.
Trong chăn nuôi, đàn gia súc gia cầm có sự phát triển ổn định, khống chế được dịch bệnh đàn lợn và gia cầm được cải tạo về giống trong phạm vi rộng có hiệu quả kinh tế. Đặc biệt, Mai Sơn chú trọng về việc nâng cao số lượng các đàn trâu bò trên địa bàn huyện để phục vụ sức kéo cho sản xuất nông nghiệp đồng thời cung cấp thực phẩm hàng hoá và buôn bán với miền xuôi nâng cao đời sống cho nhân dân.
Về sản xuất lâm nghiệp, Đảng bộ Mai Sơn đã lãnh đạo nhân dân thực hiện phong trào dãn dân dãn bản, nhận đất trống đồi trọc trồng cây, nhận rừng khoanh  nuôi bảo vệ phát triển sâu rộng ở mọi địa bàn. Dưới sự lãnh đạo của các cấp chính quyền, nhân dân các dân tộc Mai Sơn đã thực hiện nghiêm túc quyết định số 109 của Tỉnh và đạt kết quả tốt trong việc bảo vệ 4 vùng cấm chặt phá xâm phạm. Kế hoạch trồng rừng tập trung hàng năm đều đạt chỉ tiêu do tỉnh giao cho.
Cũng trong giai đoạn này, Mai Sơn thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng đến hộ nông dân nhằm nâng cao công tác quản lý bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên lâm sản có hiệu quả. Việc triển khai giao khoán đất rừng được tiến hành ở 12/20 xã, thị trấn đã góp phần bảo vệ được 36.000 héc ta rừng, giao khoanh nuôi tái sinh được 30.864 héc ta; bảo vệ chăm sóc được 830 héc ta rừng trồng. Tính đến năm 1995, toàn huyện Mai Sơn đã trồng được trên 180.000 cây phân loại. Kết quả là, nhiều mô hình thuê đất đồi núi trọc để cải tạo làm trang trại, kinh tế vườn rừng, trồng, bảo vệ và khai thác từ nguồn tài nguyên rừng đã làm ăn hiệu quả trở thành tấm gương điển hình học tập cho bà con trong huyện.
Đối với sản xuất tiểu thủ công nghiệp, huyện Mai Sơn đặt biệt chú ý đến các ngành thủ công nghiệp sản xuất có nguyên liệu tại chỗ đặc biệt là chế biến gỗ và sản xuất vật liệu xây dựng đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị phục vụ cho công tác ngói hoá nông thôn. Tổng giá trị sản phẩm công nghiệp từ 857 triệu (1991) lên 1.832 triệu đồng (1995).
Về tài chính, để đảm bảo phục vụ cho sản xuất, Đảng bộ huyện Mai Sơn đã lãnh đạo các cấp chính quyền và các ban ngành tích cực chuẩn bị cung ứng vốn góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tham gia vào chương trình xoá đói, giảm nghèo...  Khối các ban ngành kinh tế và đơn vị doanh nghiệp đã triển khai có hiệu quả các chủ trương về đầu tư ứng vốn, ứng dụng và chuyển giao công nghệ kỹ thuật mới, thay đổi giống cây, con phục vụ cho sự nghiệp dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn vốn đầu tư cho vay phát triển sản xuất từ 109 triệu (1991) lên 24.162 triệu (1995). Các nguồn vốn dự án đã được thực hiện từ 881 triệu năm 1991 đã tăng lên 2.753 triệu vào năm 1995. Thu hút các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài cũng đạt 9.643 triệu đồng. Từ nguồn vốn đầu tư của Chính phủ và Tỉnh được sử dụng hiệu quả cũng như nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp nước ngoài đã phát huy tác dụng tạo công ăn việc làm, mở rộng sản xuất cho huyện Mai Sơn. Tổng thu ngân sách của toàn huyện vì vậy mà tăng từ 1,38 tỷ (1991) lên 7,75 tỷ (1995) góp phần to lớn vào sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội và công tác xoá đói giảm nghèo.
Về xây dựng cơ sở vật chất và kiến thiết đô thị: các trung tâm thị trấn huyện lỵ và các thị tứ Cò Nòi, Nà Sản, Chiềng Mai được đầu tư quy hoạch xây dựng nên nhanh chóng phát triển mạnh mẽ, hoạt động thị trường sôi động đáp ứng được các yêu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân. Đặc biệt trong giai đoạn này, thị trấn Mai Sơn và một loạt các thị tứ dọc quốc lộ 6 đã nhanh chóng chuyển mình trở thành những trung tâm kinh tế văn hoá xã hội lớn của huyện và của cả tỉnh.
Về giao thông vận tải, song song với công tác quy hoạch và xây dựng bộ mặt đô thị làm cơ sở trung chuyển hàng hoá và thị trường buôn bán, Huyện uỷ Mai Sơn còn lãnh đạo các cấp chính quyền đẩy mạnh công tác quy hoạch và phát triển mạng lưới giao thông vận tải liên xã cũng như các tuyến đường nối liền huyện với các huyện bạn trong tỉnh. Mai Sơn đã mở mới 232 km đường giao thông nông thôn, đường từ trung tâm huyện lỵ ra bến cảng Tà Hộc và đường Mai - Mã được Trung ương đầu tư nâng cấp. Tính đến cuối năm 1994 đầu năm 1995, toàn huyện Mai Sơn đã có  19/20 xã, thị trấn được xây dựng đường ô tô tới trung tâm góp phần làm cho hàng hoá của nhân dân sản xuất ra được lưu thông thuận lợi.
Bên cạnh đó, huyện Mai Sơn còn đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động hai trạm thu phát truyền hình từ tỉnh và trung ương. Về cơ bản đến cuối năm 1994, Mai Sơn đã thực hiện xoá một phần đáng kể các vùng lõm về thông tin và phủ sóng phát thanh truyền hình đến được 13 xã trên tổng số 20 xã, thị trấn. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng hệ thống các trạm phát thanh truyền hình đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần và giúp cho nhân dân nắm bắt mau chóng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các tri thức phục vụ cho làm ăn kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi.
Trong giai đoạn này, hệ thống điện lưới quốc gia cũng được Mai Sơn đẩy mạnh triển khai đến các trung tâm xã, thị trấn để cung cấp cho nhân dân. Mặc dù vậy, do những khó khăn và hạn chế về nguồn điện lưới, Mai Sơn mới chỉ triển khai kéo đường dây điện hạ thế về phục vụ cho nhân dân của 6 xã, thị trấn trong huyện. Để khắc phục hạn chế, Mai Sơn khuyến khích toàn dân tự lực tự cường tham gia xây dựng các công trình thuỷ điện nhỏ trong khi điện lưới quốc gia chưa thể về đến địa phương. Tính đến đầu năm 1995, toàn bộ khu vực nông thôn của huyện Mai Sơn đã có hơn 300 máy thuỷ điện nhỏ phục vụ sản xuất và đời sống.
Nhờ những nỗ lực của toàn Đảng và toàn dân, kinh tế huyện Mai Sơn dần khởi sắc và đạt được những kết quả to lớn giúp cho quá trình chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế từ quan liêu bao cấp, tự cấp tự túc và cơ cấu kinh tế diễn ra thuận lợi. Nhân dân toàn huyện hăng hái tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế mà Đại hội đặt ra và ngày càng tin tưởng sâu sắc vào đường lối lãnh đạo của Đảng, nhà nước trong sự nghiệp đổi mới kinh tế - xã hội.
b. Về ttư tưởng chính trị và an ninh quốc phòng
Trong giai đoạn này, tình hình an ninh đất nước tuy có những diễn biến phức tạp song vẫn được đảm bảo giữ vững ổn định để phát triển. Mai Sơn là một huyện miền núi vùng cao lại có đường biên giáp với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nên có những khó khăn nhất định. Đặc biệt, vùng giáp biên lại là địa bàn sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số nhưng về giao thông lại không thuận lợi nên dễ trở thành địa bàn hoạt động tuyên truyền chống phá cách mạng của các thế lực thù địch. Cùng với các cấp chính quyền và tinh thần tự giác cao của quần chúng nhân dân, Mai Sơn luôn nhanh chóng phát hiện giải quyết, xử lý các vụ việc kịp thời. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc được các cấp uỷ đảng, chính quyền và đoàn thể quan tâm sâu sắc. Đảng uỷ và chính quyền huyện Mai Sơn vì vậy mà luôn nhanh chóng nắm bắt và làm chủ được tình hình, cùng nhân dân các dân tộc nêu cao tinh thần cảnh giác chống mọi âm mưu thực hiện “diễn biến hoà bình” của kẻ thù. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng được củng cố tổ chức và đổi mới sự hoạt động tập hợp đoàn viên, hội viên tích cực tham gia cuộc vận động xoá đói, giảm nghèo, vươn lên giầu có. Mối quan hệ đoàn kết gắn bó quân dân và phối hợp xây dựng lực lượng được tăng cường củng cố và đảm bảo thường xuyên luyện tập sẵn sằng chiến đấu cao. Hàng năm, huyện Mai Sơn đều đảm bảo hoàn thành và vượt chỉ tiêu tuyển quân được giao.
Để đảm bảo được ổn định chính trị và an ninh quốc phòng, một phần lớn nhờ và công tác thực hiện nghiêm túc các đợt sinh hoạt chính trị về xây dựng Đảng theo tinh thần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ cấp huyện. Thường xuyên tiến hành nhiệm vụ kiểm tra cấp ủy và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Hàng năm, số đảng viên đủ tư cách trong huyện luôn chiếm từ 95 đến 98%.
Với những thành quả của công cuộc đổi mới trên phạm vi cả nước và địa phương, nhân dân các dân tộc Mai Sơn ngày càng vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và vào khả năng vươn lên của chính mình. Trên cơ sở đó, khối đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng bộ, toàn dân được tăng cường đã thúc đẩy phong trào thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ phát triển sâu rộng, ngày càng xuất hiện nhiều những điển hình và nhân tố mới có sức thuyết phục. Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện, tổ chức công đoàn, Hội Phụ nữ, Ban Tuyên giáo huyện uỷ, phòng giao thông, Uỷ ban chăm sóc trẻ em, Hội chữ thập đỏ, xã Chiềng Mung ... là những đơn vị xuất sắc, dẫn đầu trong khối ban ngành toàn tỉnh về công tác an ninh quốc phòng....
Hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân huyện đến cơ sở, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã có những tiến bộ rõ nét, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị đã đề ra. Khối đoàn kết thống nhất của nhân dân các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới được phát huy, đảm bảo sự ổn định chính trị và giữ vững an ninh - quốc phòng.
c. Về văn hoá giáo dục và  xã hội
Từ những thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới phát triển kinh tế, đời sống văn hoá xã hội huyện Mai Sơn đã có sự mở mang phát triển về nhiều mặt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân dưới cải thiện hơn trước. Hệ thống cơ cở hạ tầng kinh tế của huyện đã được củng cố và xây dựng mới thức đầy sản xuất phát triển và phục vụ đời sống nhân dân. Trong nhiệm kỳ thứ XIV, Mai Sơn đã giải quyết công ăn việc làm cho trên 4.000 lao động thông qua việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Tập quán trồng cây thuốc phiện của đồng bào vùng cao đã được tổ chức vận động phá bỏ để thực hiện chuyển hướng cây trồng đạt được những kết quả cơ bản ban đầu.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao tiếp tục được duy trì và nâng cao chất lượng. Mở rộng phạm vi hoạt động tới các xã vùng sâu, vùng xa, các hội thi văn hoá và lễ hội truyền thống mạnh bản sắc văn hoá đa dạng của các dân tộc được khơi dậy và nâng cao. Cũng bắt đầu từ giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng cơ sở, các xã và thị trấn Mai Sơn dần hình và phát triển mô hình “đội múa hát” nhân dân.
Điều kiện cho việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phát triển sự nghiệp giáo dục có những tiến bộ mới. Sự  nghiệp y tế cơ sở đã được củng cố và phát triển ở tất cả các xã, thị trấn. Mai Sơn đã thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, các loại dịch bệnh được ngăn chặn, hiện tại đã có 50% trạm xá xã có điều kiện để hoạt động khá. Các tổ chức hội, đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên … cũng tham gia đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp lệnh dân số, vận động nhân dân các dân tộc Mai Sơn thực hiện kế hoạch hoá gia đình với tiêu chí “mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con” nhằm tạo điều kiện nâng cao chất lượng chăm sóc y tế và chăm lo cho đời sống gia đình. Từ đó, Mai Sơn đã giảm được tỉ lệ tăng dân số tự nhiên từ 3,3% năm 1991 xuống chỉ còn 2,98% vàp năm 1994. Tỉ lệ các cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp nhằm sinh đẻ có kế hoạt tăng từ 47% năm 1994 lên đến 52% năm 1995. Bên cạnh đó, Mai Sơn còn vận động toàn dân tham gia xoá bỏ hoặc hạn chế những hủ tục, thói quen truyền thống nhằm đảm bảo vệ sinh nơi cư trú, đảm bảo ăn chín uống sôi, bảo vệ nguồn nước sạch sẽ…
Đặc biệt trong giai đoạn này, Mai Sơn đã bước đầu khắc phục được tình trạng xuống cấp của hệ thống giáo dục. Hệ thống trường lớp được mở rộng và dần được kiên cố hoá ở những trung tâm thị trấn và thị tứ. Công tác chăm lo giáo dục trẻ em có nhiều nội dung thiết thực, đặc biệt là điều kiện ăn ở học tập tại trường tập trung của con em các dân tộc ít người được quan tâm đã cuốn hút được đông đảo học sinh vùng cao, vùng xa tới học tập rèn luyện. Tỷ lệ học sinh đến trường đã tăng từ 16.782 em năm học 1990 - 1991 lên 24.608 em năm học 1994 – 1995. Công tác xoá mù chữ và tái mù chữ cũng được ngành giáo dục Mai Sơn chú ý và đem lại kết quả đáng trân trọng với tổng số 4.238/ 6.261 người thoát mù chữ. Trong hệ thống giáo dục, Mai Sơn đặc biệt chú trọng đầu tư xây dựng và tạo nguồn cán bộ cho một số trường trọng điểm của huyện nhằm ươm mầm tài năng như trường THCS thị trấn, THPT Mai Sơn đồng thời mở rộng trường Bổ túc văn hoá, trường Dân tộc nội trú của huyện nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho con em các dân tộc thiểu số của huyện được theo học. Nhờ có sự quan tâm đầu tư của các ban ngành, giáo dục của Mai Sơn đã có những thành tựu nổi bật với 2 em đạt giải ba và 4 em đạt giải khuyến khích các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trên tổng số 9 giải của cả tỉnh. Điều này đã góp phần khích lệ thầy và trò của ngành giáo dục Mai Sơn thi đua đẩy mạnh phong trào “Thầy dạy tốt. Trò học tốt”.
Bên cạnh đó, các chủ trương biện pháp thực hiện chính sách xã hội tới các đối tượng đã được cụ thể hoá và coi trọng tổ chức thực hiện với nhiều hình thức đa dạng, thể hiện được ý nghĩa chính trị, sự đoàn kết gắn bó của các tầng lớp nhân dân các dân tộc, như các phong trào xây dựng nhà tình nghĩa, vườn cây tình nghĩa, góp quỹ mở đường vùng cao, vận động quyên góp ủng hộ đồng bào nơi khó khăn, đã trở thành phong trào quần chúng ở mọi đơn vị cơ sở. Mai Sơn cũng đã trao tặng nhiều sổ tiết kiệm, 111 vườn cây tình nghĩa và hơn 2000 bộ quần áo ấm cho các hộ gia đình chính sách thương binh liệt sĩ, người nghèo và đồng bào thiểu số vùng cao.
Mặc dù trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn và phải chịu hậu quả nặng nề của thiên tai khắc nghiệt nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và các cấp chính quyền, đời sống của nhân dân các dân tộc Mai Sơn đã được ổn định và giảm bớt được nhiều khó khăn hơn trước. Tính đến cuối năm 1995, Mai Sơn có trên 80% số hộ gia đình có đời sống kinh tế ổn định và toàn huyện đã đạt 41% tỷ lệ ngói hoá nông thôn. Một bộ phận nhân dân đã tích cực chuyển hướng sang sản xuất hàng hoá hoặc kinh doanh dịch vụ nhu yếu phẩm và vật dụng phục vụ cho lao động sản xuất nên có đời sống khá và giàu có.
Nhìn chung trên tổng thể các nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, học tập đi lại và hưởng thụ văn hoá của nhân dân các dân tộc đã được cải thiện hơn trước, nhất là các xã, thị trấn dọc trục quốc lộ 6.
d. Về công tác  xây dựng, củng cố, phát triển cơ sở Đảng và đào tào đội ngũ
Tổ chức cơ sở Đảng lập thành nền tảng của Đảng và là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân, là nơi giáo dục rèn luyện đảng viên, là hạt nhân chính trị lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng để tập hợp sức mạnh của quần chúng tổ chức thực hiện thắng lợi các chỉ thị nghị quyết của Trung ương, của tỉnh và huyện. Với phương châm đó, trong 5 năm (1991 – 1995), nhiều cơ sở Đảng dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ huyện Mai Sơn đã có nhiều cố gắng trên mọi mặt như xây dựng kinh tế - xã hội góp phần xóa đói giảm nghèo nhanh chóng hoà nhập với cơ chế mới xây dựng an ninh chính trị ổn định xây dựng nếp sống văn hoá mới.
Các cấp uỷ đảng Mai Sơn đã quán triệt thực hiện công tác xây dựng Đảng bộ vững mạnh theo nội dung Nghị quyết 03 BCH Trung ương Đảng. Số lượng các đơn vị cơ sở đăng ký thi đua phấn đấu xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh và được công nhận ngày càng đi vào chiều sâu đạt kết quả tốt. Những cơ sở Đảng yếu kém được Đảng bộ theo sát chỉ đạo củng cố, giải quyết dứt điểm những vấn đề nổi cộm tiêu cực nên nhanh chóng đi vào ổn định có những chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, Mai Sơn còn quan tâm đến công tác tập huấn, bồi dưỡng hoặc cử cán bộ đi nghiên cứu nâng cao trình độ, nghiệp vụ và thực hiện chủ trương trẻ hoá đội ngũ.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dan từ cấp huyện đến cấp cơ sở dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Mai Sơn đều có những tiến bộ rõ rệt, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị xã hội. Những thành tích đó của Đảng bộ và nhân dân Mai Sơn đã được tỉnh công nhận và tặng cờ đơn vị xuất sắc.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Chữ thập đỏ, Đoàn Thanh niên cũng có những đổi mới đáng kể trong hoạt động gắn chặt với cơ sở, vận động và tập hợp hội viên, đoàn viên tích cực tham gia củng cố xây dựng chính quyền vững mạnh và góp phần vào công tác đảm bảo an ninh chính trị.
Đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng đã chú ý đến đội ngũ kế thừa luôn quan tâm đến công tác phát triển đảng viên mới làm cho cơ sở Đảng vững mạnh từng bước đem lại niềm tin cho nhân dân. Phong trào đăng ký thi đua xây dựng cơ sở đảng vững mạnh đã được các chi bộ hưởng ứng thực hiện. Năm 1991 toàn huyện mới chỉ có 7 cơ sở Đảng vững mạnh thì năm 1992, số các cơ sở đảng đạt tiêu chuẩn vững mạnh đã tăng lên 12 cơ sở, năm 1993 là 22 cơ sở. Và đến năm 1995, toàn huyện đã có 34 cơ sở Đảng vững mạnh. Trong 66 cơ sở Đảng của toàn huyện, Mai Sơn đã có 14 cơ sở Đảng 5 năm liên tục kết nạp được đảng viên mới như:
1.Thị trấn Hát Lót
2. Thị trấn Nông trường Tô hiệu
3. Xã phiêng Pằn
4. Xã Cò Nòi
5. Xã Chiềng Mai
6. Xã Chiềng Mung
7. Trung tâm y tế huyện
8. Xí nghiệp điện nước
9. Vật tư nông nghiệp
10. Trường cấp 3
11. Quân sự huyện
12. Trường sư phạm
13. Công an huyện
14. Nông trường Tô hiệu
Trong 5 năm, một số cơ sở đảng đã đẩy mạnh công tác bồi dưỡng kết nạp quần chúng ưu tú vào hàng ngũ như Đảng uỷ xã Cò Nòi kết nạp được 38 đồng chí, Chiềng Lương kết nạp được 35 đồng chí, thị trấn Hát Lót 35 đồng chí. Một số chi bộ trực thuộc huyện cũng rất tích cực như Trung tâm y tế kết nạp được 13 đồng chí, Công an 18 đồng chí, Trường dạy nghề 8 đồng chí, và chi bộ Giống thức ăn gia súc kết nạp được 7 đồng chí. Cũng trong giai đoạn này, một số cơ sở đảng không kết nạp thêm được đảng viên nào như  Mường Tranh và Hát Lót.. .
Từ kết quả đạt được, các chi bộ đảng cơ sở đã bổ sung được lực lượng đảng viên trẻ, có trình độ chuyên môn và lý luận cao đồng thời đã tạo ra được đội ngũ quần chúng trẻ ngày càng có ý chí phấn đấu rèn luyện và nhiều đồng chí được đứng trong hàng ngũ của Đảng, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng bằng chính sức lực của mình. Tính đến cuối năm 1995 đầu năm 1996, Đảng bộ Mai Sơn đã kết nạp được 611 đảng viên mới, trong đó số lượng đảng viên ở tuổi đoàn kết nạp vào Đảng có 261 đồng chí. Đại hội đảng bộ huyện Mai Sơn nhiệm kỳ XIV đặt ra chỉ tiêu phấn đấu kết nạp 350 đảng viên mới nhưng các cơ sở đã kết nạp được 611 đảng viên mới vượt kế hoạch 170% cuối nhiệm kỳ.
Ngoài ra ở những năm trước đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà tỷ lệ đảng viên trong đội ngũ giáo viên còn thấp nhưng được sự quan tâm của các cơ sở Đảng, đội ngũ giáo viên trên địa bàn huyện được đứng vào hàng ngũ của Đảng ngày càng đông như: 1991 được 7 đồng chí; 1992 được 10 đồng chí; 1993 được 15 đồng chí; 1994 được 24 đồng chí; 1995 được 40 đồng chí. Đội ngũ đảng viên là nữ cũng tăng lên rất rõ nét: năm 1991 có 9 đồng chí, năm 1992 có 14 đồng chí, năm 1993 được 16 đồng chí, năm 1994 được 25 đồng chí và năm 1995 được 63 đồng chí kết nạp. Số lượng đảng viên là người dân tộc được rèn luyện và kết nạp trong 5 năm lên đến 395 đồng chí. Đặc biệt là một số dân tộc ít người như (Mông, Xinh Mun, Khơ Mú) trong vòng 5 năm đã kết nạp được 20 đồng chí. Riêng năm 1995 kết nạp được 8 đồng chí trong đó 3 Mông; 1 Khơ Mú, 3 Xinh Mun. Sự quan tâm và bồi dưỡng quần chúng là đồng bào các dân tộc ít người giác ngộ và được kết nạp đã cho thấy Đảng bộ huyện Mai Sơn thực hiện tốt chủ trương chính sách dân tộc của Đảng. Điều này góp phần quan trọng cho huyện Mai Sơn ổn định tình hình chính trị - xã hội, đoàn kết các dân tộc cùng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội địa phương.
Mặc dù Đảng bộ huyện Mai Sơn đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng Đảng nhưng một số cơ sở đảng vẫn chưa quan tâm đúng mức và có trách nhiệm trong công tác xây dựng Đảng như cơ sở đảng xã Chiềng Chăn, Công ty ong, Công ty cơ khí trong vòng 5 năm hầu như không thể phát triển được thêm đảng viên nào. Ngoài ra 5 năm kết nạp được 1 đồng chí như Chi bộ thú y, Bảo vệ thực vật, Chi bộ ngoại thương. Đảng bộ Chiềng Sung 5 năm thì chỉ có năm 1993 kết nạp được 3 đồng chí. Ngoài ra còn có một số cơ sở Đảng mặc dù có số lượng kết nạp đảng viên mới song không liên tục như một số cơ sở đảng Tà Hộc, Chiềng Dong, Chiềng Ve, Chiềng Ban trong các năm từ 1991 đến 1993 không phát triển được đảng viên nào. Điều này thể hiện sự yếu kém của tổ chức Đảng cấp cơ sở đã không theo sát quần chúng, phát hiện và rèn luyện, bồi dưỡng những quần chúng ưu tú làm nòng cốt cho công tác phát triển đảng ở cơ sở.
Một số cơ sở đảng thuộc khối cơ quan cũng rơi vào tình trạng này như chhi bộ cửa hàng Lương thực chỉ có đảng viên kết nạp vào năm 1991, 1992 và chi bộ đảng Thuỷ lợi thuỷ điện có đảng viên kết nạp trong năm 1991 và năm 1995.
Điều đáng chú ý là một cơ sở Đảng đặc biệt là Chi bộ bản trực thuộc cơ sở. Đảng uỷ không quan tâm đôn đốc hoặc nhắc nhở trong công tác phát triển Đảng dẫn đến có chi bộ hàng chục năm không kết nạp được đảng viên nào và điều này làm cho lão hoá đảng viên ở cơ sở đó. Và ngược lại, có cơ sở đảng quan tâm đến công tác phát triển Đảng nhưng lại đưa tiêu chuẩn quá cao, dẫn đến không có đối tượng mà bồi dưỡng, thậm chí một số bản vùng cao, xa, không có đảng viên.
Tính đến năm 1995, mặc dù đã có nhiều cố gắng song trên địa bàn toàn huyện Mai Sơn vẫn còn 71 bản trắng không có đảng viên; 7 trường trung tâm không có đảng viên. Tính đến năm 1995, cả huyện Mai Sơn có 3.096 đảng viên sinh hoạt trong 66 cơ sở đảng. Tuy nhiên, nếu tính theo tỉ lệ dân cư thì mới chỉ đạt 1 đảng viên/ 320 người dân. Đây là tỉ lệ quá thấp, đặc biệt đối với một huyện vùng cao nhiều cộng đồng dân tộc cùng sinh sống như Mai Sơn.
3. Những tồn tại trong lãnh đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ kinh tế, văn hoá –xã hội và an ninh quốc phòng của Đảng bộ và bài học kinh nghiệm
a. Về tồn tại hạn chế
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV, Mai Sơn đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy, nền kinh tế của huyện dù đã có chuyển biến bước đầu sang sản xuất hàng hoá song sự phát triển còn chậm, năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế còn thấp. Giá trị sản lượng nhóm cây công nghiệp dâu tằm, cà phê đạt thấp không tương xứng với mức đầu tư, do chưa chú ý khâu thâm canh cùng với yếu tố thời tiết có ảnh hưởng, nhất là cây cà phê. Sự chuyển hướng sản xuất vùng cao, vùng lòng hồ sông Đà chưa phát huy tiềm năng sẵn có, thiếu nguồn vốn đầu tư và lúng túng trong tổ chức thực hiện. Rừng còn bị tàn phá, các dự án đầu tư phát triển vốn rừng hiệu quả đạt thấp. Thuế nông  nghiệp và các loại quỹ đóng góp xây dựng còn để thất thu.
Trong lĩnh vực đời sống xã hội, diện đói khổ, đặc biệt đồng bào các dân tộc ít người, vùng cao còn lớn (khoảng 20% số hộ nông dân, tỷ lệ này ở vùng cao là 30%). Sự nghiệp giáo dục còn những yêu ském đáng lo ngại, cơ sở vật chất trường lớp thuộc các xã vùng cao, vùng xa, rách nát nghiêm trọng. Hiện tại còn 34 bản vùng cao chưa có trường lớp và giáo viên cho con em học tập; tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao, diện tái mù chữ ngày một tăng. Các điều kiện khám, chữa bệnh cho nhân dân các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ tăng dân số còn cao (2,8%) không đạt chỉ tiêu đại hội xây dựng là 2,5%.
Tình hình trật tự an toàn xã hội vẫn còn là điều băn khoăn nhức nhối của các tầng lớp nhân dân, tệ nghiện hút (700 con nghiện), tệ mại dâm. Hoạt động của bọn tội phạm hình sự với nhiều thủ đoạn ngày một tinh vi, sảo quyệt ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn nhiều hạn chế. Số đảng viên có gia đình ở diện nghèo đói còn khá lớn; đảng viên sản xuất và công tác giỏi chưa nhiều, một bộ phận giảm sút ý chí phấn đáu và phẩm chất cách mạng đã mắc sai lầm khuyết điểm phải xử ý kỷ luật với tổng số 74 đảng viên, trong đó: Khiển trách 13 đồng chí, cảnh cao 32 đồng chí, cách chức 9 đồng chí; khai trừ 20 đồng chí.
Hoạt động của chính quyền ở cơ sở trong quá trình thực hiện chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội còn nhiều mặt hạn chế, quyết định của cơ quan Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhan dân các cấp hiệu lực chưa cao. Công tác đào tạo cán bộ nhất là cán bộ dân tộc chưa đáp ứng được yêu cầu chung. Một số cấp uỷ, chính quyền, tổ chức đoàn thể quần chúng chưa chú ý củng cố tổ chức và tập hợp quần chúng ở các địa bàn vùng sâu; vùng xa tham gia tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.
b. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
Mặc dù nỗ lực sát sao trong công tác quản lý, điều hành và lãnh đạo nhân dân thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV huyện Mai Sơn đặt ra cho 5 năm giai đoạn 1991 – 1995 nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế, văn hoá, xã hội thoát ra khỏi khủng hoảng, tạo cơ sở tiền đề cho sự phát triển giai đoạn sau nhưng Mai Sơn cũng không tránh khỏi những tồn tại yếu kém trong lãnh đạo chỉ đạo. Những nguyên nhân tồn tại và yếu kém trên đã được Đảng bộ huyện Mai Sơn thẳng thắn nhìn nhận và chỉ rõ:
1. Trong sản xuất nông nghiệp sự đòi hỏi cấp thiết phải chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ, hiệu quả kinh tế và hướng đi đã rõ; song ở nhiều đơn vị cơ sở còn khó khăn, lúng túng trong tổ chức thực hiện, tư tưởng trông chờ ỷ lại vào nguồn đầu tư bao cấp còn khá phổ biến.
2. Về lĩnh vực đời sống xã hội, kết quả đạt được còn ở mức thấp so với yêu cầu đề ra, đặc biệt đối với đồng bào vùng cao, vùng lòng hồ, do địa bàn dân cư phân tán trên diện rộng, cơ sở hạ tầng yếu kém, điều kiện đầu tư hỗ trợ của Nhà nước còn hạn chế, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ, chính quyền còn thiếu những giải pháp cụ thể vững chắc.
3. Tình hình quan liêu, thiếu kỷ cương và tham nhũng còn biểu hiện ở một số đơn vị, nhiệm vụ cụ thể hoa và tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền ở một số lĩnh vực còn chậm, kém hiệu quả.
Bài học kinh nghiệm:
Trên cơ sở những thành tựu quan trọng đạt được của công cuộc đổi mới phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội giai đoạn 1991 – 1995 cùng việc nhìn nhận và chỉ rõ những tồn tại hạn chế trong công tác quản lý, điều hành lãnh đạo công tác thực hiện nhiệm vụ kế hoạch, Đảng bộ huyện Mai Sơn đã rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu phục vụ cho sự phát triển giai đoạn tiếp theo. Trong những bài học đó, Đảng bộ Mai Sơn khẳng định: trong quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị yêu cầu vừa phải đảm bảo sự chỉ đạo toàn diện, vừa kiên trì chỉ đạo tập trung một số nhiệm vụ trọng yếu, địa bàn trọng điểm; Đối với những nhiệm vụ khó khăn phức tạp trước mắt phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường của các đơn vị cơ sở, đồng thời hết sức tranh thủ sự quan tâm và hỗ trợ của các nguồn lực; huy động được lao động, tiền vốn và có bước đi đột phá bằng các chủ trương biện pháp cụ thể, thực sự sâu sát cơ sở, quan tâm đến hiệu quả kinh tế và quyền lợi của người lao động; Chú ý phát động thi đua gắn với sơ kết, tổng kết để động viên khen thưởng phong trào quần chúng và đúc rút kinh nghiệm cho việc đẩy mạnh các quá trình tiếp theo. Trong tổ chức thực hiện đơn vị cơ sở nào có cán bộ chủ chốt tích cực, năng động, đảng viên tiên phong gương mẫu đi đầu làm trước sẽ thúc đẩy sự chuyển  biến của phong trào và tinh thần chủ động sáng tạo của nhân dân được phát huy, nghị quyết sẽ đi vào cuộc sống và trở thành hiện thực.
Bài học kinh nghiệm lớn nhất của Đảng bộ Mai Sơn là công tác giáo dục tư tưởng, xây dựng Đảng và bồi dưỡng đào tạo cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngang tầm với sự nghiệp đổi mới đang tiến hành. Trong đó, Mai Sơn phải đặc biệt chú trọng đến công tác giáo dục tư tưởng, đoàn kết chặt chẽ các đảng viên trong toàn Đảng bộ nhằm thống nhất tư duy, ý chí và hành động cao trên tất cả các mặt nhằm tạo sức mạnh tổng lực của toàn xã hội phục vụ công cuộc đổi mới đạt kết quả. Để làm được điều này, trọng tâm của công tác giáo dục, xây dựng Đảng và bồi dưỡng đào tạo cán bộ cần phải được đẩy mạnh một cách toàn diện. Người đảng viên phải đảm bảo “vừa hồng vừa chuyên” và hội đủ “đức” lẫn “tài” mới đảm bảo được nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.
TIỂU KẾT
Nhìn chung, công cuộc đổi mới phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Mai Sơn đạt được những thành tựu to lớn trong nhiệm kỳ Đại hội XIV là nhờ có chủ trương đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước cùng những kết quả của công cuộc đổi mới được tiếp tục khẳng định trên phạm vi cả nước và trong tỉnh đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới huyện.
Mặc dù vậy, nguyên nhân chủ yếu và quan trọng đặc biệt tạo nên thành công bước đầu của công cuộc đổi mới giai đoạn 1991 – 1995 ở huyện Mai Sơn xuất phát từ năng lực lãnh đạo chính trị và sự vận dụng cụ thể hoá nghị quyết của Trung ương, của tỉnh uỷ ở các cấp uỷ đảng đã có sự năng động, sáng tạo; phong trào lãnh đạo, chỉ đạo điều hành có sự tập trung và phát huy được sức mạnh tổng hợp. Ban Chấp hành Đảng bộ đoàn kết nhất trí với tinh thần luôn chủ động sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, tranh thủ sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của Tỉnh và các tổ chức quốc tế. Nhân dân các dân tộc có sự chuyển biến tích cực về chuyển đổi sang sản xuất hàng hoá, năng lực sản xuất và tiềm năng lợi thế của địa bàn được phát huy.
Những thành tựu và hạn chế cũng như những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ XIV giai đoạn 5 năm 1991 – 1995 của Đảng bộ và nhân dân huyện Mai Sơn đã được Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XV đánh giá sâu sắc và đúc kết thành những cơ sở tiền đề cho việc thực hiện nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - văn hoá xã hội của huyện Mai Sơn giai đoạn sau.
************************
Tài liệu tham khảo.
1. Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 1986
2. Báo cáo kiểm điểm công tác quản lý điều hành của UBND huyện Mai Sơn năm 1993.
3. Báo cáo kết quả Đại hội Đảng cơ sở vòng I. Tổng hợp ý kiến góp ý vào dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Trình Đại hội Đảng bộ huyện Mai Sơn lần thứ XIV (Vòng II).
4. Báo cáo kết quả Đại hội cơ sở Đảng (vòng I) và những vấn đề đặt ra để Đại hội XIV (vòng I) Đảng bộ huyện thảo luận góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện Đại hội VII của Đảng.
5. Báo cáo kết quả đại hội cơ sở Đảng (vòng I) và những vấn đề đặt ra đại hội XIV (vòng I) đảng bộ thảo luận góp vào các dự thảo văn kiện Đại hộ VII của Đảng.
6. Báo cáo (tóm tắt) tình hình phát triển kinh tế - xã hội Đảng bộ huyện Mai Sơn nhiệm kỳ 14 năm 1991 – 1995.
7. Chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1991
8. Chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1992
9. Chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1994
10. Dự thảo tóm tắt báo cáo chinh trị tại Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XV.
11. Tóm tắt đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và một số mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb ?, trang 50.
[2] Báo cáo kết quả Đại hội Đảng cơ sở vòng II. Tổng hợp ý kiến góp ý vào dự thảo báo cáo của BCH Đảng bộ huyện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Mai Sơn lần thứ XIV

Không có nhận xét nào: