Trang

Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 26 tháng 2, 2010

Đảng trong trái tim tôi (Vietnam Communist Party in my mind)

Ngày 3/2/2010 là ngày kỉ niệm Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 80 tuổi. Đây là sự kiện lớn và quan trọng đầu tiên của đất nước trong năm 2010. Nhân dịp này, các đảng viên thuộc Đảng bộ Trường ĐHKHXH&NV đã chia sẻ những kỉ niệm của bản thân về những ngày đầu được đứng trong hàng ngũ của Đảng cũng như đóng góp ý kiến cho công tác xây dựng Đảng.

* PGS. Lê Mậu Hãn: Chặng đường 80 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định những giá trị đúng đắn trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Tôi còn nhớ vào dịp kỉ niệm 30 năm thành lập Đảng, Bác Hồ đã nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Cụ nói cô đọng nhưng rất sâu sắc. Và những người nghiên cứu về sử cho đến tận bây giờ, càng ngày càng nhận thấy giá trị đúc kết, giá trị tổng kết hết sức đúng đắn của câu nói đó. Có thể thấy rằng sự ra đời, trưởng thành, lớn mạnh cùng những thành công mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt được trong suốt con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước gắn liền với vai trò to lớn của nhà cách mạng tiên phong của dân tộc là Bác Hồ. Những tư tưởng của Bác đã đi cùng Đảng ta trong suốt những ngày đầu thành lập Đảng và đến nay vẫn tiếp tục song hành cùng Đảng, cùng dân tộc trong chặng đường phát triển mới và vẫn còn nguyên giá trị.
PGS. Lê Mậu Hãn - đảng viên 50 tuổi Đảng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. (Ảnh: NA)PGS. Lê Mậu Hãn - đảng viên 50 tuổi Đảng, nguyên Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. (Ảnh: NA)
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành, người thanh niên cấp tiến đã dấn thân ra đi để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người thanh niên ấy ra đi chỉ với hành trang là người con của một dân tộc Việt Nam, một quốc gia dân tộc hình thành sớm trong lịch sử, một dân tộc sớm có ý thức cố kết đùm bọc nhau, có ý thức sâu sắc về cương vực mình ở, về chủ quyền đất nước và chiến đấu với ý chí để bảo vệ cuộc sống của mình. Đó cũng chính là sức mạnh, là động lực, là mục tiêu của cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Bác Hồ đã nhận định: thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của ý chí, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc ta. Những sức mạnh ấy, giá trị tinh thần to lớn ấy của dân tộc đã được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu giá trị văn minh phương Đông và phương Tây, qua nghiên cứu đường lối, bài học kinh nghiệm của các cuộc cách mạng lớn trên thế giới từ thế kỉ 17. Cuối cùng, Nguyễn Tất Thành đã vô cùng vui mừng khi bắt gặp tư tưởng của chủ nghĩa Mác, của cách mạng tháng Mười. Nhiều giá trị của chủ nghĩa Mác tuy chưa thành hiện thực nhưng phải thấy rằng mục tiêu của chủ nghĩa Mác là xây dựng xã hội không có giai cấp áp bức, một xã hội mà quyền tự do của con người được bảo đảm, đó là mục tiêu cao đẹp. Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác và học tập Cách mạng tháng Mười, Hồ Chí Minh đã không giáo điều mà vô cùng sáng tạo để có thể vận dụng khéo léo vào tình hình thực tiến của cách mạng Việt Nam. Có thể nói rằng các nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh có tính toàn diện, mang tầm vóc của một học thuyết, đó là học thuyết về cách mạng, về giải phóng để đi đến độc lập tự do.

* PGS. Nguyễn Văn Hàm: Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là một niềm vinh dự và tự hào

Khi tôi trở thành sinh viên của Trường Đại học Tổng hợp, tôi và nhiều bạn bè đã có ý thức phấn đấu để trở thành Đảng viên. Đó cũng chính là ý thức phấn đấu của cả một thế hệ trẻ lúc bấy giờ. Nguyện vọng đó đã được Chi bộ hết sức ủng hộ. Sau những cố gắng, nỗ lực của bản thân, khi là sinh viên năm thứ 4 của Khoa Lịch sử, tôi đã được chi bộ xét kết nạp vào Đảng. Tôi vẫn còn nhớ ngày đó là ngày 05/6/1967.
PGS. Nguyễn Văn Hàm - đảng viên chi bộ Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng. (Ảnh: NA)PGS. Nguyễn Văn Hàm - đảng viên chi bộ Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng. (Ảnh: NA)
Ngày được kết nạp Đảng của tôi gắn với một kỉ niệm rất sâu sắc. Lúc đó tôi và 2 đồng chí nữa là sinh viên năm thứ 4 được biệt phái sang Cục Lưu trữ phủ Thủ tướng, sơ tán tại ATK Tuyên Quang để nghiên cứu, viết khoá luận tốt nghiệp. Từ ATK về Đại Từ, Thái Nguyên là nơi sơ tán của trường lúc ấy, chúng tôi đã phải đi xe đạp vượt qua đèo Khế với độ dài cả chục cây số. Khi lên đèo thì vất vả nhưng an toàn, khi xuống không mất nhiều sức nhưng rất nguy hiểm. Hai người chúng tôi đã có sáng kiến là kiếm một cành cây lớn để buộc vào sau xe đạp để giúp giảm tốc độ, rồi nhả phanh từ từ mà xuống đèo. Đến khi xuống đèo thì không còn nhận ra mình nữa vì khắp người toàn bụi bám. Lúc chúng tôi về đến trường thì mọi người mừng lắm. Ngay sáng hôm sau, lễ kết nạp Đảng cho tôi đã được tổ chức trong một lớp học nửa chìm nửa nổi trong lòng đất để tránh bom của địch.
Lễ kết nạp diễn ra trang trọng, thiêng liêng nhưng cũng hết sức giản dị. Chúng tôi phân công nhau treo ảnh Các Mác, Lê-nin, ảnh Bác Hồ, treo cờ Đảng, tự tay cắt dòng chữ “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm” bằng giấy vở học sinh dán lên tường. Lễ kết nạp hôm ấy cùng với kỉ niệm phải đổ dốc đèo Khế rất vất cả về trường cho kịp buổi lễ đã trở thành một ấn tượng không bao giờ quên đối với tôi. Và còn may mắn hơn nữa khi tôi được giữ lại và tr thành một trong những người đầu tiên xây dựng ngành Lưu trữ học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, tiếp tục gắn bó cuộc đời mình với nơi đã tôi đã trưởng thành.
Trong cả cuộc đời mình, được đứng trong hàng ngũ của Đảng và giờ đã có trên 40 năm tuổi Đảng thực sự là một niềm vinh dự và tự hào của tôi.
Sau khi kết nạp Đảng, nguyện vọng của tôi là làm sao phát huy được tính tiền phong gương mẫu của người Đảng viên. Làm việc hết mình vì tập thể, hoàn thành bất kì công việc nào được giao, chân thành góp ý, giúp đỡ đồng nghiệp..., đó là tâm niệm của tôi với tư cách là một đảng viên. Tôi nghĩ rằng Đảng có tạo được lòng tin trong dân, có tạo được sức mạnh của mình thì phải dựa vào những người đảng viên chân chính. Do đó, công tác phát triển Đảng trong cán bộ trẻ và sinh viên phải là một trong những trọng tâm công tác của Đảng bộ trường ta, qua đó không chỉ động viên, giúp đỡ các bạn trẻ rèn luyện mình mà còn góp phần tăng cường sức mạnh của Đảng. Đối với các thầy cô giáo, các đảng viên trong trường ta, xuất phát từ đặc thù của trường, tôi cho rằng cách giáo dục truyền thống tốt nhất cho sinh viên là phải thông qua các bài giảng đậm chất trí tuệ và nhân văn, thông qua chính tâm gương đạo đức của các thầy cô giáo.

* PGS.TS Lâm Bá Nam: Phải nâng cao tầm trí tuệ của Đảng

Năm nay là năm có nhiều sự kiện lớn của đất nước, trong đó một trong những sự kiện lớn đầu tiên là kỉ niệm 80 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - sự kiện mở đầu một mùa xuân mới của đất nước, trong của một thập kỉ mới của thế kỉ 21. Chặng đường 80 năm của một đảng chưa hẳn là quá dài, nhưng là một điều đặc biệt đối với một một đảng đã trải qua 80 năm phát triển gắn liền với tiến trình lịch sử của cả một dân tộc và của cách mạng Việt Nam kéo dài từ thế kỉ 20 sang thế kỉ 21. Đây là đảng cầm quyền, là Đảng Cộng sản, tổ chức đóng vai trò tiên quyết, quan trọng nhất xuyên suốt tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc.
PGS.TS Lâm Bá Nam - đảng viên chi bộ Khoa Lịch sử, nguyên Phó BT Đảng uỷ nhà trường. (Ảnh: NA)PGS.TS Lâm Bá Nam - đảng viên chi bộ Khoa Lịch sử, nguyên Phó BT Đảng uỷ nhà trường. (Ảnh: NA)
Cách đây 50 năm, vào dịp kỉ niệm 30 năm Đảng Lao động Việt Nam, Bác Hồ đã nói: “Đảng ta thật vĩ đại!”. Vào năm 1945, với 15 năm tuổi và chỉ với trên 5000 đảng viên, Đảng phát động quần chúng làm nên thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng 8. Nhiều thế hệ các chiến sĩ cách mạng, đảng viên của Đảng đã đổ máu và hi sinh vì sự nghiệp to lớn này. Từ đó cho đến nay, trải qua 80 năm, Đảng ta đã lớn mạnh không ngừng, lực lượng cũng ngày càng hùng hậu. Ngày càng có nhiều cán bộ trẻ, nhiều nhà khoa học, trí thức phấn đấu và gia nhập hàng ngũ của Đảng.
Đối với cá nhân tôi, một người đã có trên 30 năm tuổi Đảng, thì toàn bộ tuổi thanh xuân của tôi là là đứng trong hàng ngũ của Đảng. Lúc bấy giờ, vào Đảng là một sự kiện quan trọng và thiêng liêng đối với thanh niên bấy giờ. Chúng tôi vào Đảng chỉ với một mục đích là được đứng trong hàng ngũ của những người ưu tú, được chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của dân tộc. Khi tôi vào Đảng vào năm 1978, bố tôi là chính uỷ một trung đoàn, đã rất vui mừng khi biết tôi khi đó là một người lính đã phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Ông viết thư chúc mừng tôi. Trở thành Đảng viên là một điều thiêng liêng, nhưng tôi luôn tâm niệm rằng giữ danh hiệu ấy, sống xứng đáng với danh hiệu ấy như thế nào trong suốt cuộc đời mình còn quan trọng hơn rất nhiều. Cho nên đối với tôi, dù đã là đảng viên hơn 30 năm nhưng tôi luôn nghĩ khoảng thời gian đó mới chỉ là một phần trong cả sự nghiệp, cả cuộc đời mình. Còn một phần quan trọng nữa, tính từ thời điểm hiện tại cho đến khi rời bỏ cõi đời này, mình phải luôn phấn đấu để xứng đáng với danh hiệu cao quý - danh hiệu là một người đảng viên.
Tôi nghĩ, trong chặng đường phát triển sắp tới của mình, có hai vấn đề lớn mà Đảng cần quan tâm: Một là phải làm cho Đảng ta thật trong sạch. Đảng mà không trong sạch thì sẽ làm mất niềm tin đối với dân và làm mất đi sức mạnh của mình.
Hai là Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ của mình. Trí tuệ của Đảng có tầm quyết định đường hướng phát triển của cả một dân tộc với tư cách là đảng cầm quyền. Bài học thực tiễn 80 năm của đảng ta cho thấy: mối quan hệ máu thịt của Đảng và dân là nhân tố quan trọng nhất làm nên thắng lợi của cách mạng. Nếu Đảng làm dân tin thì tư tưởng của Đảng mới đi vào đời sống người dân. Đảng thuộc về dân tộc, thuộc về nhân dân nhưng không đứng trên dân tộc, đứng trên nhân dân. Nếu dân không coi tổ chức Đảng là của mình thì sức mạnh của Đảng không còn. Và trí tuệ của Đảng chỉ được nhân lên khi Đảng biết sử dụng trí tuệ của cả dân tộc để tạo thành trí tuệ lớn.

* PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế: Chúng tôi đã đến với Đảng bằng một tình yêu trong sáng

Nếu Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 80 tuổi thì tôi có vinh dự được là đảng viên trong 30 năm. Nói một cách khác, danh hiệu Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam đã là một phần quan trọng trong cuộc sống của tôi và có lẽ là phần tinh hoa nhất của cả một thế hệ chúng tôi. Và nói đến điều đó, chúng tôi có thể khóc được, có thể vui và có thể kiêu hãnh được. Những năm tháng là đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và sau đó là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là những năm tháng tuổi trẻ đẹp nhất của tôi.
PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế - đảng viên chi bộ Khoa Lịch sử. (Ảnh: NA)PGS.TSKH Nguyễn Hải Kế - đảng viên chi bộ Khoa Lịch sử. (Ảnh: NA)
Còn nhớ ngày ấy ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, với thế hệ chúng tôi như là Nguyễn Hải Kế, Lê Chí Quế, Nguyễn Quang Ngọc, Lê Kim Bôi, Hoàng Văn Nhung,... được trở thành đảng viên là niềm tự hào, sự xúc động sâu sắc và lòng tự tin về sự trưởng thành của bản thân gắn liền với chế độ. Cái kiêu hãnh đó khó tả lắm, bởi vậy khi nhắc về nó ta như trở về với một điều rất linh thiêng. Đối với thế hệ sinh ra, lớn lên, được thừa hưởng chế độ từ những năm 1954 trở lại thì khát vọng phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản là một điều thiêng liêng và trong sáng cực kì.
Tôi tự hào rằng những năm tháng ấy trao truyền cho thế hệ chúng tôi một sức mạnh, mà thời đại ngày nay gọi là sức mạnh “mềm”. Trong điều kiện bình thường, sức mạnh ấy nó có thể ẩn tàng như không có nhưng mỗi khi có trở lực phía trước, sức mạnh mềm đó lại góp phần nhân lên và thúc đẩy chúng tôi vượt qua những khó khăn tưởng như không thể vượt qua nổi. Tôi tự hào là thế hệ chúng tôi đã thừa kế xứng đáng lớp những đảng viên cộng sản chân chính của thế hệ trước. Không viển vông, không lãng mạn, cũng không duy tâm vì tôi biết là trong phẩm chất nghìn năm của dân tộc Việt Nam, dân tộc đã “đẻ” ra Đảng Cộng sản Việt Nam, tinh hoa của dân tộc đã “đẻ” ra những người đảng viên chân chính, trở thành Bộ tham mưu với tầm nhìn xuyên qua những trở ngại nhất thời của dân tộc trên bước đường sinh tồn, trên chặng đường dài khó khăn của một quốc gia, một dân tộc vốn gặp rất nhiều phong ba bão táp trong hành trình phát triển. Chúng tôi đã sống và bước đi với niềm tin tưởng ấy mà không kèm theo chút tự kiêu hay thoả mãn nào. Dù lúc bấy giờ, chúng tôi có thể chưa hiểu mấy về chặng đường đấu tranh dài gay go của thời kì quá độ, từ một xã hội tiểu nông, nghèo đói, lạc hậu để đi đến một xã hội văn minh, hiện đại, bình đẳng, tự do, bác ái.
Cội nguồn xuất phát điểm, động lực cho mọi phấn đấu chỉ là một niềm tin trong sáng cực kì. Rõ ràng phải cảm ơn điều đó chứ!
Chúng tôi còn may mắn ở lại miền Bắc, nhưng nhiều lớp bạn bè thế hệ sau năm 54, đi vào chiến trường, dấn thân vào cuộc đấu tranh để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã vĩnh viễn nằm lại. Những thế hệ ấy trong sáng lắm. Đi tới một xã hội công bằng, bình đẳng, văn minh là cả một con đường dài vạn dặm, lắm chông gai. Đây đó những lúc này lúc khác trong cuộc đời, có những lúc buồn, thất vọng thì chúng tôi lại biết cách vượt qua bằng niềm tin ban đầu mãnh liệt ấy. Đó là vài tâm sự và suy nghĩ của tôi nhân dịp Đảng tròn 80 tuổi và tôi cũng tròn 30 năm tuổi Đảng.
Với tư cách là một đảng viên, là một công dân và là một nhà khoa học thì khát vọng lớn nhất của thế hệ chúng tôi là không ngừng tìm tòi, khám phá để tìm ra chân lí khách quan của khoa học, của đời sống. Với tư cách là đảng viên của một đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo thì chúng ta phải hiểu rằng: bằng khoa học và với trách nhiệm trước đời sống xã hội thì các nhà khoa học xã hội và nhân văn phải luôn suy tư, khám phá để phát hiện ra những vấn đề lớn của khoa học xã hội nhân văn Việt Nam, nhất là trong thời kì đang công nghiệp hoá, hiện đại hoá này.
Tổng kết lịch sử của khoa học xã hội, đời sống văn hoá xã hội của đất nước là cực kì quan trọng và là tiền đề để tìm ra những hướng vận động sắp tới. Các nhà khoa học xã hội Việt Nam, trong đó có cá nhân tôi phải tìm thấy ở đấy những sức mạnh vừa có tính nhân loại, vừa có tính đặc thù của Việt Nam được kết tinh và lắng lại trong hàng nghìn năm qua, để trả lời câu hỏi: ngày hôm nay, trong quá trình hội nhập thì khoa học xã hội Việt Nam, xã hội Việt Nam, con người Việt Nam có lợi thế gì trong quá trình hội nhập? Hội nhập không phải để giống người khác, mà để ngang bằng với nhân loại nhưng vẫn duy trì, thừa kế được những cái gì là của con người Việt Nam, có thể gợi mở được sức mạnh của bản thân, cái tinh tuý của người Việt Nam để góp phần vào cái phong phú chung của nhân loại. Đấy là trách nhiệm của các nhà khoa học xã hội, trong đó có vai trò của người đảng viên vì đảng viên và tổ chức đảng thực chất là bộ tham mưu chiến đấu được xã hội thừa nhận trong 80 năm qua. Sự thừa nhận đó được chứng minh bằng quá trình đấu tranh thắng lợi để giành độc lập dân tộc, xây dựng xã hội công bằng, văn minh và hội nhập với thế giới. Nhiệm vụ đó gian khổ cực kì, thách thức cực kì nhưng cũng vô cùng vẻ vang. Chính vì thế mà con đường phấn đấu rèn luyện, nói theo đạo là “tu”, là một quá trình rèn luyện gian khổ không chỉ của cá nhân mà của cả tổ chức Đảng, với sự ủng hộ và kiểm định của toàn bộ xã hội.
Thanh Hà (thực hiện)
Nguồn sưu tầm từ: http://www.vnu.edu.vn

Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2010

GS. Nguyễn Lân - một thầy giáo toàn tâm - tài - đức

VINH QUANG NGHỀ LÀM THẦY

Cha tôi - NGND Nguyễn Lân - sinh ra từ một làng quê nghèo. Trong cuốn Hồi ký (xuất bản năm 1998) cha tôi kể rằng: “Nhà rất nghèo lại không có ruộng đất gì trong một miền bạc điền, thường xuyên bị hạn hán, bố mẹ mất sớm, bốn anh em nheo nhóc, bố tôi đành phải bỏ làng ra đi tha phương cầu thực”...
Cha tôi may mắn được một người anh họ, vì nhận thấy tư chất cậu bé Lân thông minh và hiếu học, nên dù chỉ là thư ký ở Sở Xi măng, nhưng ông đã cố gắng đỡ đầu và đưa ra Hải Phòng nuôi cho ăn học. Đó là cơ hội quí giá giúp cha tôi vươn lên trong con đường học vấn. Về sau khi thi vào trường Bưởi, nhờ học giỏi, cha tôi đã nhận được học bổng toàn phần. Năm 1925 khi mới 19 tuổi và đang còn là học sinh trung học, cha chúng tôi đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Cậu bé nhà quê.
Đó là một phần tự truyện về thời thơ ấu của cha tôi. Nhà văn Nguyễn Khải đánh giá: Cha tôi là một trong những người đầu tiên viết tiểu thuyết ở Việt Nam. Cuốn tiểu thuyết này về sau được dịch sang tiếng Pháp và đến năm 1934 được xác định dùng làm sách giáo khoa cho học sinh. Cha tôi tốt nghiệp thủ khoa trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương năm 1932. Từ đó cha tôi gắn bó suốt đời với sự nghiệp trồng người và sự nghiệp nghiên cứu khoa học.
“Cậu bé nhà quê” thời đó về sau đã trở thành một nhà giáo nổi tiếng có công đào tạo rất nhiều thế hệ học sinh, trở thành một nhà quản lý giáo dục trong nhiều năm, trở thành một nhà nghiên cứu với 42 cuốn sách đã xuất bản, trong đó có nhiều cuốn Từ điển (viết riêng hoặc viết chung) mà xã hội có nhu cầu tái bản nhiều lần, trở thành một nhà hoạt động xã hội góp phần quan trọng trong sự nghiệp vận động trí thức trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Chúng tôi còn nhớ rõ trong thời gian kháng chiến chống Pháp cha tôi làm nhiệm vụ quản lý giáo dục ở Liên khu X và sau đó là ở Liên khu Việt Bắc. Với số lương tính bằng thóc hết sức ít ỏi cha tôi chi có thể trích một phần rất nhỏ để tự mình rong ruổi bằng xe đạp đến khắp các tỉnh trên Việt Bắc nhằm chỉ đạo việc phát triển giáo dục trung tiểu học. Cha tôi còn tự viết sách giáo khoa Ngữ pháp Việt Nam cho các cấp học, tự biên soạn Từ điển Muốn đúng chính tả để dùng cho thày trò các trường, tự soạn lấy đề thi trên cơ sở các đề do các trường gửi về rồi tự tay đánh máy và niêm phong các đề thi này...
Có thể nói trong khói lửa chiến tranh và vượt qua muôn ngàn khó khăn cha tôi đã dốc hết tâm lực xây dựng ngành giáo dục phổ thông trong địa bàn rộng lớn được giao phó và đã đạt kết quả rất tốt. Niềm vinh dự to lớn mà cha tôi được tiếp nhận đó là thư khen của Bác Hồ với lời khen về Một Giám đốc có tài cùng với một bộ quần áo lụa màu nâu gụ bên trong có thêu  dòng chữ Chúng cháu kính dâng Bác Hồ. Những phần thưởng cao quý này cha tôi đã trao tặng lại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trước khi nghỉ hưu.

Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân 1906-2003
Cho đến gần cuối đời cha tôi luôn rất khoẻ mạnh nhờ nghiêm túc và điều độ trong sinh hoạt, không hề uống rượu, hút thuốc, tự nghĩ cho mình một bài tập thể dục và không sáng nào không thực hiện bài tập ấy, sau đó tắm nước lạnh, kể cả những tháng lạnh giá nhất của mùa đông.
Cách đây 13 năm, trước nỗi đau mất mẹ tôi và chị Tề Chỉnh  , chúng tôi tưởng chừng cha không thể gượng dậy được. May mắn thay, cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam, một công trình mà cha tôi đã nung nấu từ lâu đã giữ được cụ ở lại với đàn con. Tình yêu và nghị lực đã giúp cụ hoàn thành cuốn Từ điển dày dặn này. Sau nhiều năm một mình âm thầm chuẩn bị, cha tôi bắt đầu đặt bút viết vào tuổi 90 để 5 năm sau, ở tuổi 95, cụ đã hoàn thành bộ Từ điển đồ sộ với 2.200 trang in, gần đây lại đã được tái bản với số lượng lớn, không chỉ chúng tôi mà nhiều người cũng nhận thấy luôn luôn cần phải cuốn từ điển ấy bên mình. Năm ấy chúng tôi xin phép được làm Lễ mừng thọ cha 95 tuổi nhưng cụ hẹn rằng hãy đợi đến khi  tròn 100 tuổi.
Chúng tôi vẫn tin rằng cụ dư sức vượt qua ngưỡng tuổi 100. Bởi vì cho đến cách khi mất trên một năm cụ vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh. Hơn nửa thế kỷ liền cụ đã tạo riêng cho mình và thực hiện đều đặn một bài tập kéo dài 2 giờ mỗi buổi sáng để tự rèn luyện thể lực và trí lực. Không có sự rèn luyện khoa học và kiên trì như vậy thì làm sao một “cậu bé nhà quê”, là con của một bà mẹ nghèo, vốn sinh ra rất yếu ớt lại có thể sống khoẻ mạnh, không có bệnh tật gì cho đến gần 100 tuổi. Cụ vẫn thường vui vẻ nói: “Tôi có hai điều hạnh phúc lớn. Một là, các con đều ngoan và có ích cho xã hội; Hai là, cho đến nay tôi vẫn không có bệnh tật gì”.
Nhưng bệnh ung thư tai ác nào có từ ai! Cụ đã phải vĩnh viễn xa lìa gia đình, các bạn bè và biết bao học trò yêu quý. Mặc dầu đã được tập thể các GS, BS, và nhân viên y tế của hai Bệnh viện Việt - Đức và Bạch Mai hết lòng chăm sóc, cứu chữa nhưng sự nghiệt ngã của căn bệnh hiểm nghèo đã cướp đi sinh mệnh của cha chúng tôi.
Vào lúc 13 giờ 43 phút ngày 7 tháng 8 năm 2003 (tức ngày 10 tháng Bảy năm Quý Mùi) cha chúng tôi đã ra đi thanh thản và nhẹ nhàng, nhưng để lại một khoảng trống quá lớn trong lòng mỗi chúng tôi, một khoảng trống không gì có thể bù đắp nổi.

Sau hôm cha tôi từ trần chúng tôi đã nhận được sự quan tâm thăm hỏi và động viên quý báu của các đồng chí lãnh đạo, các cơ quan, đoàn thể, của biết bao học trò cũ của cụ, của họ hàng, các thông gia và của cả rất đông đảo bạn bè. Sự có mặt của hàng nghìn người đến đưa tiễn cha tôi hôm tang lễ không chỉ là sự chia sẻ với chúng tôi nỗi đau to lớn này mà còn chứng tỏ mọi người vô cùng tiếc thương một con người đức độ, trung thực, đã dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp Trồng người và có những công hiến đáng kể cho khoa học, văn học và hoạt động xã hội.
Cha tôi sẽ mãi mãi yên nghỉ ngay cạnh mẹ của chúng tôi, người mà cha tôi suốt đời hết mực thủy chung, suốt đời yêu thương, suốt đời chia sẻ ngọt bùi, người đã chung sức cùng cha tôi động viên, giáo dục cả một đàn con cháu đông đúc. Căn buồng nhỏ của cụ ở Khu tập thể Kim Liên với một chiếc giường đơn, một tủ sách, một bàn viết nhỏ mà trên đó cụ đã từng viết 18 tác phẩm và những bộ Từ điển đồ sộ từ hai năm nay đã vắng bóng cha tôi
Nhưng cha tôi vẫn còn sống mãi trong tâm trí chúng tôi và biết bao thế hệ học trò, đồng nghiệp cùng đông đảo độc giả. Chúng tôi vô cùng tự hào về cái gia tài tinh thần mà cụ đã để lại cho muôn đời con cháu. Đó là tấm gương về lòng tin, tin ở chính mình, tin ở sự nghiệp vẻ vang của dân tộc, tin ở lẽ phải, ở chính nghĩa, tin ở tất cả những người lương thiện sống quanh ta.
Đó là tấm gương về lòng hiếu học và ý chí phấn đấu học tập suốt đời để không ngừng làm giàu kiến thức cho mình và dùng kiến thức ấy để cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đó là tấm lòng nhân ái, yêu đời, yêu người, vị tha, khoan dung dành cho những người sống quanh mình. Cha tôi luôn xót thương cho những số phận bất hạnh, luôn luôn cảm thông cho những lỗi lầm do ít kinh nghiệm hoặc thiếu kiến thức. Nhưng cụ lại là người hết sức bất bình với những hành vi tham lam, vị kỷ, dối trá, lừa lọc, vô đạo đức. Cụ căm ghét sự lợi dụng chức quyền, làm giàu bất chính, bắt nạt dân lành, dối trên lừa dưới.
Đó là tấm gương về nếp sống giản dị, tiết kiệm, không màng công danh, phú quý, không chuộng hình thức, luôn khiêm nhường và quý trọng sức lao động của người khác. Tất cả vốn tài sản quý giá này của cha tôi sẽ là truyền thống tốt đẹp của gia đình . Các thế hệ chúng tôi sẽ xin ghi lòng tạc dạ và nhắc nhở nhau luôn luôn soi vào tấm gương của cha để học tập, rèn luyện, phấn đấu và hết lòng phục vụ nhân dân trên mỗi cương vị công tác của mình.
GS. TS. Nguyễn Lân Dũng

 VĨNH BIỆT NHÀ GIÁO NHÂN DÂN NGUYỄN LÂN
Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân (sinh năm 1905) đã ra đi vào hồi 13h ngày 7/8/2003, thọ 99 tuổi. Ngày nay nhiều người biết đến Giáo sư Nguyễn Lân là người soạn tự điển. Nhiều thế hệ đứng tuổi thì biết đến Giáo sư là nhà giáo dạy học từ thời Quốc học ở Huế đến thời Truyền bá Quốc ngữ miền Trung trước Cách mạng Tháng Tám 1945; rồi từ Khu học xá bên Trung Quốc đến Đại học Sư phạm Hà Nội. VietNamNet xin đăng bài viết của nhà sử học Dương Trung Quốc về giáo sư.
Tôi không được học thầy Nguyễn Lân giờ nào trên ghế nhà trường; sách Tự điển Tiếng Việt thầy tặng thi thoảng lắm mới phải dùng đến; nhưng tôi luôn coi Giáo sư Nguyễn Lân là thầy và hơn thế nữa lại là một đồng nghiệp nay đã có thể gọi là bậc tiền bối. Bởi lẽ ít ai biết rằng Giáo sư Nguyễn Lân đã từng viết truyện vào cuối thời Tự lực Văn đoàn, rồi lại viết sách về lịch sử. Đó là hai cuốn "Lịch sử đính hoa" và "Những trang sử vẻ vang". Tôi biết đến hai cuốn sách này nhờ sự mách bảo của thứ nam Giáo sư Đào Duy Anh mà hai vị giáo sư này đã từng quen biết và cộng sự với nhau vào những năm tháng ở Huế, trong phong trào Truyền bá Quốc ngữ cũng như sau này trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Chiến khu Việt Bắc trong những ý tưởng xây dựng nền sử học cách mạng.
Giáo sư Nguyễn Lân quê gốc Hưng Yên, con nhà nghèo nhưng học giỏi, suốt cuộc đời Nguyễn Lân dành cho sự nghiệp trồng người, đào tạo bao thế hệ học sinh. Có thời kỳ ông còn phụ trách Báo "Tổ Quốc", Cơ quan Trung ương của Đảng xã hội Việt Nam cho đến ngày tự giải thể. Ông được coi là một trong những tác gia biên soạn từ điển lớn nhất của nước ta. Ngoài các tác phẩm về tâm lý giáo dục, với bút danh Từ Ngọc, Nguyễn Lân còn viết nhiều tác phẩm văn học và sử học.
Tài liệu do gia đình cố Giáo sư Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng Bộ Giáo dục kể lại rằng: Ngày 2.3.1949 một hội nghị của ngành giáo dục được triệu tập giữa những ngày kháng chiến gian khổ đề xuất ý tưởng thành lập "Viện Sử học" để có một "trung tâm sửa soạn một bộ sử, sưu tầm tài liệu nghiên cứu lịch sử, khuyến khích những người yêu sử học". Chính tại Phú Thọ, đất Tổ của các vua Hùng, Hội đồng sử học đã họp kỳ đầu tiên trong đó có nhiều tên tuổi như Nguyễn Khánh Toàn, Trần Huy Liệu, Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Hoàng Đạo Thuý, Trần Văn Khang, Lê Dư, Bùi Kỷ... và có cả Nguyễn Lân sau này lại trở thành thông gia với vị Chủ tịch Hội đồng là Nguyễn Văn Huyên.
Hoạt động của tổ chức sử học này về sau còn thu hút nhiều tên tuổi khác trong giới hoạt động văn hoá như Phan Khôi, Hoài Thanh, Trần Văn Giáp...
Tôi biết đến Giáo sư Nguyễn Lân từ lâu, một phần còn vì tôi quen biết với vài người con của thầy, nhưng thực sự được gần gụi với thầy là dịp Hội Sử học tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày mất của Ưng Hoè Nguyễn Văn Tố (1947 - 1997); rồi năm sau đó tổ chức kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (1938 - 1998). Cụ Tố là Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ còn Giáo sư Nguyễn Lân là một trong những người chủ chốt của hội ở miền Trung.
Nhờ dịp đó mà tôi được gần thầy Nguyễn Lân và cũng nhờ vậy mà thầy nói với tôi về duyên nghiệp với sử học. Với thầy, lịch sử của dân tộc không những vẻ vang mà thực sự phải giống như một tấm vóc đính hoa để muôn đời phải quý trọng.
Tôi có hỏi kỷ niệm làm xúc động nhất trong cuộc đời làm thầy thì Giáo sư Nguyễn Lân kể lại rằng: "Đó là lần về Huế thăm lại ngôi nhà cũ ở dốc Nam Giao, gặp một bà già trông thấy tôi liền hỏi: "Có phải cụ là người dạy quốc ngữ cho tôi ở chùa Từ Đàm không?". Câu hỏi ấy khiến Giáo sư "sung sướng xiết kể", khi nhắc lại còn nói với tôi rằng: Lịch sử không chỉ là trí nhớ mà còn là đạo nghĩa!
Năm cuối của thế kỷ trước, có một việc làm mà ít ai biết. Đó là việc một số người nặng lòng với nước muốn làm việc nghĩa, tổ chức tại đàn Nam Giao ở Huế một lễ tế trời đất và những sinh linh đã chết trong những năm tháng chiến tranh và thiên tai khốc liệt. Dự lễ tế này còn có nhiều người được coi là có năng lực ngoại cảm, một số nhân sĩ trí thức mà tôi cũng được mời đến. Chủ tế hôm đó là ba vị lão thành: Một vị là tín đồ Thiên Chúa Giáo đến từ TP.HCM, một vị là trưởng tộc Tôn thất ở Huế và cao nhiên nhất là Giáo sư Nguyễn Lân từ Hà Nội vào.
Buổi lễ vào giữa đêm diễn ra rất trang trọng và thành tâm. Sau buổi lễ, tôi hỏi Giáo sư Nguyễn Lân: Thầy có tin hay không? Thì được trả lời rằng: Một nhà khoa học, có thể không tin vào thần thánh, nhưng phải biết tin vào chính mình khi hướng về điều thiện... Cũng chính vì thế mà ấn tượng về một người thầy ở Giáo sư Nguyễn Lân càng sâu sắc trong tôi.
Giáo sư Nguyễn Lân ra đi khi đã sắp chạm vào cái ngưỡng trăm tuổi theo nghĩa đen của chữ. Cứ theo quan niệm của người xưa thì người sống như thế đã hơn cả đại thọ và người ấy khi chết là được rước sang cõi bên kia (trẻ làm ma, già làm rước). Hơn thế nữa, Giáo sư Nguyễn Lân vẫn còn để lại cả một "dàn" các giáo sư mang họ Nguyễn Lân cùng các tên Việt - Trung - Dũng - Hùng - Cường... đủ thấy cái lộc cụ gieo cho đời sâu nặng là thế nào.
(Dương Trung Quốc - Lao Động)

Gia đình nhà giáo tiêu biểu: Gia đình GS. Nguyễn Lân - một đại gia đình thầy giáo toàn tâm - tài - đức

Nguyễn Lân (1906-2003) là Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, nhà biên soạn từ điển, Học giả nổi tiếng của Việt Nam. Ông đã công hiến trọn đời mình cho nền giáo dục Việt Nam và là người có công trong việc xây dựng bộ môn và khoa tâm lí học, giáo dục học của hệ thống các trường Sư phạm ở Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Lân sinh năm 1906 trong một gia đình nhà nông nghèo, hiếu học ở làng Ngọc Lập, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Trong ông luôn có một nỗ lực vươn lên, vượt qua khó khăn mãnh liệt.
Năm 1927: Ông thi đỗ Thủ khoa vào Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Năm 1932: Ông dạy tại Trường Hồng Bàng, sau đó làm giám học và dạy 2 môn văn, sử tại Trường Thăng Long. Tại Trường Tư thục Thăng Long, cùng với các nhà giáo giỏi như Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Bình... ông đã đào tạo ra những tú tài xuất sắc cho Việt Nam. Từ năm 1935 đến năm 1945: ông sinh sống tại Huế. Năm 1945: Ông được Chính phủ Trần Trọng Kim mời làm Đốc lý ở Huế, ông đã chấp thuận với 2 yêu cầu: 1. Tuy  làm đốc lý nhưng vẫn ăn lương nhà giáo và có giờ dạy học, 2. không giao thiệp với người Nhật đang có mặt ở Huế lúc ấy. Thời gian này ông đã mở một lớp sư phạm, đồng thời tiến hành một số hoạt động hướng về cách mạng Việt Nam, ông đã mời các nhân sĩ ở Huế đến họp để đổi tên các đường phố từ tên tiếng Pháp sang tên tiếng Việt. Năm 1946: Ông trở ra Hà Nội và dạy học tại Trường Chu Văn An. Được một thời gian, kháng chiến bùng nổ, Ông đưa vợ con lên vùng Việt Bắc và được cử làm Giám đốc giáo dục Liên khu 10 gồm 6 tỉnh: Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên (nay là Vĩnh Phúc), Tuyên Quang, Lào CaiHà Giang. Năm 1951: Ông được cử đi học ở khu học xã Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Năm 1956: Ông về dạy tại khoa tâm lý giáo dục của trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ông cùng với các nhà giáo nổi tiếng và xuất sắc khác như: Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Ngụy Như Kon Tum, Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Khánh Toàn... là lớp người đầu tiên được nhà nước Việt Nam phong Học hàm Giáo sư. Năm 1971: Ông về nghỉ hưu ở tuổi 67. Từ đó cho đến khi qua đời, ông đã dành trọn thời gian cho việc biên soạn từ điển và nghiên cứu nhằm gìn giữ, phát triển tiếng Việt. Các cuốn từ điển nổi tiếng do ông biên soạn như: Từ điển Việt - Pháp (1989), từ điển Hán - Việt, từ điển thành ngữ, tục ngữ Pháp – Việt (1993), từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000)... Năm 1988: Ông được được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân. Năm 2001: Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng nhà nước về khoa học và công nghệ cho "Cụm công trình về giáo dục học từ điển tiếng Việt". Ngày 7 tháng 8 năm 2003: Ông qua đời ở tuổi 97.

Giáo sư Nguyễn Lân đã cống hiến trọn tâm và lực suốt đời mình cho nền giáo dục Việt Nam. Khi đất nước còn bị thực dân Pháp cai trị, ông đã giáo dục, dạy dỗ và truyền tinh thần yêu nước vào một bộ phận tầng lớp tiểu tư sản để rồi sau đó họ là những người phục vụ đất nước, cách mạng Việt Nam. Khi giữ chức vụ giám đốc giáo dục liên khu 10, Ông đã bổ dụng các trưởng ty giáo dục (nay là giám đốc các Sở Giáo dục và đào tạo) và cùng họ lo toan để đưa nền giáo dục dần vào nề nếp. Ông tích cực tham gia các hoạt động kháng chiến như tăng gia sản xuất, lấy tiền giúp quỹ thương binh, dạy các lớp bình dân học vụ, thăm hỏi bộ đội. Bên cạnh đó ông còn biên soạn tài liệu để in thành sách giáo khoa văn, sử đầu tiên của nhà nước Việt Nam độc lập. Khi giảng dạy ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội, ông đã đào tạo được một đội ngũ giáo viên tâm lý – giáo dục giỏi cho các viện và các trường đại học, phổ thông mới thành lập. Cũng trong thời kỳ này, ông đã biên soạn nhiều cuốn giáo trình về khoa học giáo dục có giá trị như: Ngữ pháp Việt Nam (1956), Lịch sử giáo dục thế giới (1958), Người thầy giáo XHCN (1960), Giảng dạy trên lớp (1961). Đến khi nghỉ hưu, ông cũng dành trọn thời gian cho việc lưu trữ tiếng Việt thông qua các cuốn từ điển.

Ông có 8 người con, tất cả đều là giảng viên của các trường đại học lớn và đều là những nhà khoa học xuất sắc, nổi tiếng của Việt Nam.
- Người con trai cả là Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lân Tuất, nguyên Chủ nhiệm khoa lý luận và sáng tác của Nhạc viện Nguyễn Thái Bình - Nga, Phó Chủ tịch Hội người Việt ở Nga, người Việt đầu tiên được phong tặng Nghệ sĩ Công huân Nga (năm 2001).
- Người con thứ hai là nữ Tiến sĩ Nguyễn Tề Chỉnh (bà đã qua đời), nguyên là giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Người con thứ ba là Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng, Giám đốc Trung tâm vi sinh vật học ứng dụng, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, XI, XII, giảng viên khoa Sinh học trường Đại học Khoa học tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Người con thứ tư là Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lân Cường, chuyên viên cổ nhân học, Viện khảo cổ học Việt Nam, giảng viên khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Người con thứ năm là Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Lân Hùng, tổng thư kí các hội sinh học Việt Nam, giảng viên khoa Sinh học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Người con thứ sáu là Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lân Tráng, giảng viên bộ môn Hệ thống điện, khoa Điện, trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
- Người con thứ bảy là Giáo sư - Tiến sĩ - Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân Việt là Viện trưởng Viện tim mạch Việt Nam, Chủ nhiệm Bộ môn Tim mạch - Đại học Y Hà Nội, Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam. Ông nguyên là Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội.
- Người con út là Phó Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Lân Trung, Phó Hiệu Trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch VFF.

Gia đình GS. Nguyễn Lân: một đại gia đình thầy giáo toàn tâm - tài - đức