Trang

Tổng số lượt xem trang

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2011

Quan điểm chính thống của Việt Nam về biển Đông

THỦ TƯỚNG NÓI VỀ BIỂN ĐÔNG
 ---------------------------------------

Ngày 25/11, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã có phiên trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.
22 đại biểu đã đặt câu hỏi cho Thủ tướng, trong đó có hai người hỏi về vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông.
Dưới đây là nguyên văn trả lời của ông Nguyễn Tấn Dũng, được Quốc hội Việt Nam công bố.
"Quán triệt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển năm 1982 của Liên hiệp quốc, tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông, gọi tắt DOC đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc, căn cứ vào thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển mà ta và Trung Quốc mới ký trong chuyến thăm của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến Trung Quốc, căn cứ những chủ trương, đường lối và những nguyên tắc nêu trên, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên biển Đông như sau:
Vấn đề thứ nhất, về đàm phán phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Trong Vịnh Bắc Bộ sau nhiều năm đàm phán, ta và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận phân định ranh giới năm 2000, còn vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ nếu theo Công ước Luật biển năm 1982 thì thềm lục địa của nước ta có trồng lấn với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Từ năm 2006 hai bên đã tiến hành đàm phán, mãi tới năm 2009 thì hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường hai bên còn rất khác xa nhau. Đến đầu năm 2010 hai bên thỏa thuận là nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển sau nhiều lần đàm phán như tôi vừa trình bày, nguyên tắc đó đã được hai bên ký kết nhân dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc vừa rồi. Trên nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển này thì vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, vì vậy 2 nước Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này trên cơ sở Công ước Luật biển, trên cơ sở DOC, trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận.
Để có một giải pháp hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được chúng ta đang thúc đẩy cùng với Trung Quốc xúc tiến đàm phán giải quyết việc phân định này. Cũng xin nói thêm trong khi chưa phân định thì trên thực tế với chừng mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Cũng trên cơ sở này chúng ta có đối thoại với Trung Quốc để bảo đảm cho việc an ninh, an toàn trong việc khai thác nghề cá của đồng bào chúng ta. Đó là vấn đề thứ nhất.
"Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình."
Vấn đề thứ hai, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đó là vấn đề quần đảo Hoàng Sa. Thưa các đồng chí, các vị đại biểu, Việt Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là từ Thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ khi 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hòa bình. Nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình.
Chủ trương này của chúng ta phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, phù hợp với Công ước về Luật biển, phù hợp với tuyên bố DOC. Đó là loại vấn đề thứ hai mà chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền.
Vấn đề thứ ba, quần đảo Trường Sa, năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc thì Hải Quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài Gòn chính quyền Việt Nam Cộng hòa đang quản lý chúng ta tiếp quản.
Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm, 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi mà 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Trong khi đó ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng đã chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Philipin chiếm 9 đảo, Malaixia chiếm 5 đảo, còn Bruney có đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển nhưng không có chiếm giữ đảo nào.
Như vậy trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam chúng ta cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà chúng ta đang đóng giữ với số hộ là 21 hộ, 80 khẩu, trong đó có 6 khẩu cũng đã sinh ra, lớn lên ở các đảo này.
"Như vậy trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam chúng ta cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà chúng ta đang đóng giữ với số hộ là 21 hộ, 80 khẩu, trong đó có 6 khẩu cũng đã sinh ra, lớn lên ở các đảo này."
Chủ trương của chúng ta đối với thực hiện chủ quyền đối với Hoàng Sa là như thế nào mà các đồng chí nêu, tôi cũng muốn nói rõ vấn đề này. Chủ trương của chúng ta là nghiêm túc thực hiện Công ước Luật biển, nghiêm túc thực hiện tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông gọi tắt là DOC và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây mà chúng ta đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc, cụ thể là chúng ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm có ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực này. Việc thứ nhất là chúng ta yêu cầu phải giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm để gây ảnh hưởng đến hòa bình ổn định ở khu vực này.
Thứ hai là chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế-xã hội và cơ sở vật chất, kỹ thuật ở những nơi chúng ta đang đóng giữ bao gồm cả đường sá, điện, trạm xá, trường học, nước v.v... để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân dân đảo Trường Sa, đó là việc làm thứ hai.
Việc làm thứ ba là chúng ta có các cơ chế chính sách hiện nay đã có, Chính phủ đang yêu cầu sơ kết đánh giá lại cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào ta khai thác thủy, hải sản, vận tải biển trong khu vực này. Không có thời gian, tôi không nói cụ thể nhưng đã có, đang có hiệu quả, nhưng chúng tôi thấy cần phải sơ kết để làm sao khuyến khích, hỗ trợ cho bà con của chúng ta thực hiện làm ăn sinh sống, thực hiện chủ quyền trên vùng biển Trường Sa này.
Vấn đề thứ tư, liên quan tới cam kết quốc tế là chúng ta nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện theo đúng Công ước Luật biển năm 1982 và tuyên bố DOC là phải bảo đảm tự do hàng hải ở biển Đông, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, trật tự, tự do hàng hải ở Biển Đông. Bởi vì đây là mong muốn, là lợi ích của tất cả các bên liên quan, không chỉ của Việt Nam, của tất cả các bên liên quan của các nước. Vì trên Biển Đông là tuyến đường vận tải hàng hóa từ đông sang tây mà tuyến đường này là tuyến vận tải từ 50%-60% tổng lượng hàng hóa vận tải từ đông sang tây.
Đó là những việc ta làm cụ thể. Lập trường này của chúng ta thì báo cáo với các vị đại biểu là được cộng đồng quốc tế ủng hộ, gần đây nhất là tại Hội nghị cấp cao ASEAN và cấp cao ASEAN với các đối tác.
Vấn đề thứ tư, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền trên Biển Đông là vấn đề phải giải quyết và khẳng định chủ quyền của chúng ta trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật Biển năm 1982. Chúng ta đã và sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền để quản lý thực hiện chủ quyền ngày càng đầy đủ hơn, hiện quả hơn đối với vùng biển này.
Tôi xin nói lại là vùng biển 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước Luật Biển năm 1982.
Do không có thời gian, nên tôi xin trình bày vắn tắt 4 vấn đề mà chúng ta đang chủ trương giải quyết và khẳng định chủ quyền trên Biển Đông."

Duonghahieu dẫn từ: 
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/11/111125_viet_pm_southchinasea.shtml

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011

Quy định về hình thức kết cấu đề tài NCKH cấp khoa của Khoa Sử - Địa

KHOA SỬ - ĐỊA
Tiu ban NCKH
THÔNG BÁO CỦA KHOA SỬ - ĐỊA
v/v phát đng phong trào sinh viên nghiên cu khoa hc cp khoa.

- Thực hiện kế hoạch năm học hàng năm, được sự uỷ thác của Ban Chủ nhiệm khoa Sử - Địa, Tiểu ban NCKH ra thông báo phát động phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học tới toàn bộ sinh viên trong khoa. Lớp trưởng các lớp thực hiện lập bảng đăng ký sinh viên làm đề tài NCKH gửi về cho Trưởng Tiểu ban (có mu kèm theo).
1. Đối tượng tham gia.
- Sinh viên khoa Sử - Địa kể cả hệ ĐHSP và CĐSP không giới hạn về số lượng hay yêu cầu về tiêu chuẩn.
- Sinh viên các khoa đam mê nghiên cứu tìm hiểu Khoa học Lịch sử và Địa lý;
2. Quyền lợi và nghĩa vụ.
Sinh viên tham gia nghiên cu khoa hc cp khoa được hưởng nhng quyn li sau:
+ Được động viên giúp đỡ về mặt tài liệu nghiên cứu trong quá trình thc hin đề tài;
+ Được tuyn chn để báo cáo ti Hi ngh SV NCKH cp khoa din ra vào trung tuần tháng 04 hàng năm;
+ Công trình nghiên cứu của SV được tuyển chọn in và tng k yếu ca Hi ngh SV NCKH khoa S - Địa;
+ Được khoa ưu tiên cng đim thưởng rèn luyn vào mc nghiên cu khoa hc và hot động phong trào.
Để hot động nghiên cu khoa hc đạt hiu qu cao, sinh viên tham gia phi thc hin mt s quy định sau:
+ Sinh viên phi trc tiếp tìm thy và nh thy hướng dn và phi đăng ký vi Tiu ban NCKH ca khoa S - Địa theo danh sách lp.
+ Phi đảm bo thc hin đúng thi gian theo quy định ca Tiu Ban và Ban T chc đề ra v tiến độ trin khai, hoàn thành đề tài, np đề tài.
+ Phi np 01 bn tóm tt đã đánh máy theo quy định ca Tiu ban nghiên cu khoa hc bng đĩa mm hoc USB (Ban T chc sau khi tp hp và kim tra hình thc và ni dung s tr li đĩa mm và USB).
3. Thời gian đăng ký SV NCKH.
Các sinh viên trong khoa và ngoài khoa chọn đề tài và liên hệ với các thầy cô trong khoa Sử - Địa từ tháng 6 hàng năm cho đến hết tháng 10 hàng năm. Hết thời gian trên, Ban tổ chức không nhận thêm.
Sơn La, ngày 01 tháng 10 năm 20....
Trưởng Tiu ban NCKH khoa S - Địa


Trưởng khoa S - Địa
Dương Hà Hiếu
T.S. Phm Văn Lc

Mẫu danh sách sinh viên đăng ký tham gia làm đ tài NCKH cp khoa

Stt
H và tên
Lp
Tên đề tài
Ging viên hướng dn
1




2




3




4




5




6




7








QUY Đ ÌNH V Ề H ÌNH TH ỨC C ỦA Đ Ề T ÀI K ẾT C ẤU
Sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học cấp khoa cần đảm bảo những yêu cầu trong nghiên cứu, hoàn thiện đề tài và tóm tắt của đề tài theo kết cấu sau:
1. Về đề tài.
a. Quy định về hình thức:
- Căn lề (page setup).
+ Lề trên (Top): 02 cm.
+ Lề dưới (Bottom: 02 cm.
+ Lề trái (Left): 03 cm.
+ Lề phải (Right): 02 cm.
- Phông chữ (Font): Times New Romanm Unicode.
- Cỡ chữ ( Font size): 14.
b. Quy định về kết cấu, đề tài phải đảm bảo những yêu cầu sau:
Mở đầu.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu và đóng góp của đề tài.
3.1. Về đối tượng.
(Đề tài nghiên cứu cái gì?)
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
a. Về không gian.
(Đề tài nghiên cứu về địa phương, vùng, miền, khu vực nào?)
b. Về thời gian.
(Đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian nào? )
3.3. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
( Tác giả chọn đề tài nghiên cứu nhằm giải quyết những vấn đề gì?)
3.4. Đóng góp của đề tài.
(Dự kiến sau khi đề tài hoàn thành sẽ có những đóng góp cơ bản gì)
4. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở tư liệu.
(Đề tài được thực hiện dựa trên những nguồn tự liệu chủ yếu nào? )
4.2. Phương pháp nghiên cứu.
(Để hoàn thành đề tài, sinh viên đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu nào?)
5. Bố cục của đề tài.
(Đề tài có bố cục như thế nào?)
VD:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, và phụ lục, đề tài gồm  chương (phần):
Chương 1
. ..
Chương 2
. ..
Chương  3
. ..
Sau đó sinh viên vào luôn các chương hoặc các phần của đề tài.
 Lưu ý: Danh mục các tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tự của bảng chữ cái, cụ thể như sau: số thứ tự, tên tác giả, năm xuất bản, tên tác phẩm,(số tập nếu có), nhà xuất bản hoặc cơ quan xuất bản.
VD:
1. Đặng Văn Ánh (1998), Lịch sử thế giới trung đại. NXB. Giáo dục.
2. Trần Quang Bình (1998), Lịch sử thế giới hiện đại, t4. NXB. Giáo dục.
3. Nguyễn Lân Cường (2006), Khảo cổ Đông Nam á. NXB. Khoa học Xã hội.
- Trích dẫn được sử dụng vào đề tài được quy định chú thích như sau: [số tài liệu ở danh mục tài liệu tham khảo: số trang - số trang]
VD: [1: 34 -35] tức là tài liệu số 1 phần tài liệu tham khảo, trang 34 và 35.
- Số trang được đánh ở phía dưới, bên trái của đề tài.
2. Về tóm tắt để in kỷ yếu.
a. Quy định về hình thức:
- Căn lề (page setup).
+ Lề trên (Top): 02 cm;  Lề dưới (Bottom: 02 cm.
+ Lề trái (Left): 03,5 cm;  Lề phải (Right): 02 cm.
- Phông chữ (Font): Times New Roman Unicode.
- Cỡ chữ ( Font size): 12.
Lưu ý: Không đánh số trang.
b. Về kết cấu và dung lượng.
Tóm tắt đề tài dùng để in kỷ yếu gồm 3 phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận.
Giới hạn của tóm tắt: dài không quá 03 trang đánh máy.

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

KHẢO CỨU LẠI VỀ HỒ CHÍ MINH

KHẢO CỨU LẠI VỀ HỒ CHÍ MINH

  Tsuboi Yoshiharu
 GS.TS, Đại học Waseda, Nhật Bản. 
(Đây là tham luận tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ 3 tổ chức tại Hà Nội 5-8/I2/2008. Bài đã đăng trong kỷ yếu Hội thảo, TI, NXB Đại học quốc gia xuất bản năm 20II)
  
 GS Tsuboi Yoshiharu đang trình bày tham luận "Khảo cứu lại về Hồ Chí Minh" tại Hội thảo


Hồ Chí Minh với tư cách là một người theo chủ nghĩa Cộng hòa 
         Trong bài viết này, chúng ta thử thoát khỏi những quan niệm về "Tư tưởng Hồ Chí Minh" của Đảng Cộng sản Việt Nam  cũng như cách đánh giá Ông Hồ như một người cộng sản Marx-Lenin,  lần theo những nẻo đường trong cuộc đời Hồ Chí Minh để khảo cứu lại tư tưởng của Ông trên một lập trường giá trị tự do hơn. 
          Từ khi bắt đầu nghiên cứu Việt Nam năm 1973, mỗi  lần có cơ hội, tôi lại cố gắng lần theo những dấu vết cuộc hành trình của Hồ Chí Minh. Bắt đầu từ xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - quê hương của Hồ Chí Minh, tôi  lần theo dấu chân Ông ở Nhà kỉ niệm Hồ Chí Minh ở Vinh - thủ phủ của tỉnh Nghệ An; phòng làm việc, Bảo tàng và Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thủ đô Hà Nội; Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Thành phố Hồ Chí Minh; trường Quốc học Huế, v.v... Ở Trung Quốc, tôi đã đến thăm Hồng Kông, Quảng Đông, Thượng Hải, Diên An, v.v... Tôi cũng tìm đến ngôi nhà Hồ Chí Minh từng sống ở Moscow.  Tôi đã đứng trong ngôi nhà ở  phố Compoint, đƣợc coi là nơi hoạt động của Hồ Chí Minh ở Paris. Ở London, tôi đã tới thăm khách sạn nơi Ông  từng  làm đầu bếp dưới sự hướng dẫn của Escoffier. Ở New York, tôi đã thử hình dung Hồ Chí Minh đã ngắm nhìn bức tượng Nữ thần tự do từ góc độ nào. Tôi cũng có dịp thảo luận với các nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh người Pháp như Brocheux, G.Boudarel ... Đương nhiên, tôi cũng có dịp trao đổi ý kiến với những nhà trí thức, học giả người Việt như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Đình Đầu, Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Nguyên Ngọc, v.v... Trong quá trình đó, tôi luôn cảm thấy dường như chưa có ai đoán đúng được tư tưởng "bè trầm liên tục" của Hồ Chí Minh. 
           Cho đến gần đây, tôi nhận ra rằng có lẽ giá trị mà Hồ Chí Minh coi trọng nhất trong suốt cuộc đời của mình là những giá trị của nền Cộng hòa. Tôi cho rằng nếu nhận thức Hồ Chí Minh nhƣ một ngƣời theo chủ nghĩa Cộng hòa, chúng ta có thể đánh giá được một cách đầy đủ và đúng đắn nhất những tư tưởng và hành động của Ông. 
         Không ai phủ nhận việc Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc. Mục tiêu tối thượng của Ông là giải phóng dân tộc và giành lại nền độc lập cho Tổ quốc từ tay thực dân Pháp. Để thực hiện công cuộc đó, cơ sở lý luận của Ông là  "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" - những biểu tượng của nền Cộng hòa. 
          Khi đặt chân đến nước Pháp, đất nước đã biến Việt Nam thành thuộc địa, Ông phát hiện ra rằng tầng lớp lao động nghèo khổ ở Pháp cũng ở trong tình cảnh bi thảm  như các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Đồng thời, Ông cũng ngạc nhiên trước tinh thần Cộng hòa đối xử bình đẳng với con người bất kể sự khác biệt về màu da, ngôn ngữ, văn hóa. Có một câu chuyện nổi tiếng liên quan đến vấn đề này. Sau chuyến hải hành dài bắt đầu từ Sài Gòn, cuối cùng Hồ Chí Minh cũng đến được Marseille. Đây là lần đầu tiên Ông Hồ đặt chân lên nước Pháp. Ông vào một quán cà phê và gọi một tách cà phê. Người hầu bàn đáp lại: "Vâng, thưa Ông" (Oui, Monsieur). Khi còn ở Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân, Hồ Chí Minh chưa bao giờ được gọi bằng từ "Mousieur". 
          Đối với chàng thanh niên Hồ Chí Minh khi đó mới 21 tuổi, được một người Pháp gọi là  "Mousieur" là một sự ngạc nhiên thú vị.  Có lẽ khi đó người hầu bàn cũng không nghĩ rằng vị khách của mình là một người Việt Nam đến từ xứ thuộc địa, hoặc cũng có thể anh ta không quan tâm tới quốc tịch của vị khách. Câu nói của người hầu bàn chỉ là một câu nói "đương nhiên" thường dùng để xác nhận với khách hàng. Nó được anh ta sử dụng như một cái máy chứ không có ý kính trọng gì đặc biệt ở đây. Thế nhưng, đối với Hồ Chí Minh, một người vốn đã quen chứng kiến quang cảnh phân biệt đối xử ở xứ thuộc địa, câu trả lời "đương nhiên" đó lại là một hiện tượng thật ngạc nhiên và mới mẻ. 
Tinh thần nền Cộng hòa Pháp 
         Tinh thần nền Cộng hòa Pháp mang tính lý tưởng cao. Qua Cách mạng Pháp, một quan điểm mới về giá trị con người khác hẳn với giai đoạn trước đã được xác lập. 
          Như đã thể hiện trong câu nói của bản Tuyên ngôn Nhân quyền: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng", sự khác biệt căn bản nhất của thời Cận đại so với các thời đại khác là sự thay đổi 180 độ quan điểm về giá trị con người. Tinh thần nền Cộng hòa chính là cuộc vận động nhằm tạo nên và lý tưởng hóa hình tượng con người mới, thúc đẩy mỗi cá nhân tiếp cận với hình tượng lý tưởng đó.  
         Đó là cách nhận thức con người bằng việc bài trừ những thuộc tính cá nhân. Lấy ví dụ, nó không quan tâm tới người đó là người Nhật hay người Việt Nam, sinh ra ở tỉnh nào, xuất thân trong gia đình hay dòng họ nào, bao nhiêu tuổi, là nam hay nữ. Vấn đề quan trọng là con người đó với tư cách là một "cá nhân" có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính hay không.  Nền Cộng hòa được xây dựng bởi những cá nhân là nhân dân Pháp, bất kể giai cấp, màu da hay người đó có sinh ra ở Pháp hay không. Do vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của nền Cộng hòa là phải giáo dục ra được những "cá nhân" có đủ khả năng suy nghĩ một cách lý tính. 
       Tuy nhiên, không dễ dàng hiện thực hóa được những lý tưởng đó của tinh thần Cộng hòa. Đã có rất nhiều hành động nhằm kéo xã hội quay về với tư tưởng cũ. Để xác lập được tinh thần Cộng hòa, nước Pháp cần phải đợi đến thời kỳ nền Đệ  tam Cộng hòa, khoảng 100 năm sau Cách mạng Pháp. Ở nước Pháp khi đó cũng như ngày nay, nông dân luôn đóng vai trò trung tâm. Họ có tư tưởng cực kỳ bảo thủ. Ở người nông dân, tình cảm thích nhà vua, coi trọng gia đình, truyền thống và dòng dõi là hết sức mạnh mẽ. Trong số họ có rất nhiều người vừa hiếu kỳ đối với những người khác, đồng thời lại có những suy nghĩ mang tính phân biệt chủng tộc, cho rằng người da trắng ưu việt hơn so với các chủng tộc khác. Cách mạng Pháp đã thay đổi tư tưởng bảo thủ của nông dân thành những "cá nhân" theo giá trị con người kiểu Cận đại, quá trình biến đổi đó kéo dài 100 năm. Ngay trong thời đại hiện nay, dù có quá nửa người Pháp tán thành tinh thần Cộng hòa, nhưng rõ ràng cũng có không ít người vẫn duy trì thể tạng cũ của nông dân. Nói một cách chính xác hơn, vẫn còn rất nhiều người vẫn mang trong mình mâu thuẫn giữa một bên là con người được giáo dục để mang tinh thần Cộng hòa một cách tự giác, với một bên là quan điểm bảo thủ về giá trị con người vốn được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình thủ cựu. Về mặt này, có thể nói người Pháp vẫn mang đầy mâu thuẫn, và tinh thần Cộng hòa vẫn đang tiếp tục bị thử thách ở nước Pháp. Trong khi đó, người Việt Nam lại hoàn toàn ngược lại. Người Việt Nam trước tiên coi trọng thuộc tính. Mỗi khi đến Việt Nam, tôi thường rất lúng túng khi bị người Việt Nam đặt những câu hỏi liên quan đến cá nhân như bao nhiêu tuổi, làm việc cho công ty nào, ở vị trí gì, xuất thân từ trường đại học nào, vùng nào, tầng lớp nào, gia đình như thế nào. Hay những câu hỏi đại loại như "Đã kết hôn chưa?", "Đã có con chưa, nếu có con thì được mấy con rồi?", "Con mấy tuổi"... Tại sao người Việt Nam lại chấp nhặt những thông tin cá nhân và hoàn cảnh gia đình như vậy. Đó là vì: thông qua những câu hỏi đó, người Việt muốn làm rõ vị trí của đối phương, dựa vào đó xác định rõ ràng mối quan hệ xã hội trên dưới giữa mình và đối phương. Từ đó, quan hệ đó sẽ được phản ánh qua cách dùng từ và động tác ứng xử, qua việc sử dụng cách nói kính trọng hay khiêm tốn, có nên chào hỏi và bắt tay như đối với người lớn hơn hay không. Để xây dựng được quan hệ tốt đẹp cho hai bên và ứng xử đúng với những qui tắc xã hội vô hình, trước tiên người Việt phải tìm hiểu những thuộc tính của đối phương. Đây không chỉ là truyền thống của riêng Việt Nam mà là truyền thống của cả khu vực theo văn hóa Nho giáo, tương ứng với thế giới Đông Á bao gồm cả Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, những nơi cũng lấy  "quan hệ" giữa con người với con người làm qui tắc chuẩn cho hành động. 
        Ở Đông Á, nơi thuộc tính cá nhân và quan hệ con người đóng vai trò chủ đạo, người ta đã không lý giải được hết được tinh thần nền Cộng hòa. Người ta thường viện dẫn những ví dụ của nước Pháp và nước Mỹ để đưa ra những định nghĩa mang tính mô phạm về nền Cộng hòa, kiểu như nền Cộng hòa là việc chặt đầu nhà vua, phế bỏ chế độ quân chủ, xây dựng thể chế chính trị "của dân, do dân, vì dân"; nền Cộng hòa là thể chế chính trị mà nhân dân đóng vai trò chính,... Ngƣời ta đã không đạt tới được nhận thức rằng: điều kiện tiền đề của nền Cộng hòa là những "cá nhân" theo quan điểm giá trị mới về con người. 
Nhận thức về tinh thần nền Cộng hòa của Hồ Chí Minh 
        Người viết cho rằng có lẽ Hồ Chí Minh là lãnh đạo chính trị duy nhất ở Đông Á nhận thức được một cách đúng đắn nhất tinh thần nền Cộng hòa và Ông đã  cố gắng đưa nó vào Việt Nam. Tôi muốn lần theo những hành động của Hồ Chí Minh trong quãng thời gian 10 năm Ông phát huy đƣợc năng lực lãnh đạo của mình nhất, tức là quãng thời thời gian từ lúc về nước năm 1941 sau ba chục năm bôn ba ở hải ngoại đến những năm 1950, để chứng minh cho giả thuyết nêu trên. 
         Trước tiên, tôi cho rằng cần phải khảo cứu lại vấn đề tại sao Hồ Chí Minh lại "phát hiện" ra Lênin và trở thành một người Cộng sản. Để định nghĩa lại Hồ Chí Minh từ một người cộng sản Marx-Lênin thành một người theo chủ nghĩa Cộng hòa, cần phải làm rõ mối quan hệ này. 
        Hồ Chí Minh biết đến Lênin nhờ đọc bài viết đƣợc công bố của Lênin về vấn đề thuộc địa. Ông đã bị thu hút mạnh mẽ bởi mối quan tâm sâu sắc cũng như cách đưa ra những phương pháp giải quyết cụ thể đối với vấn đề thuộc địa của Lênin. Ông Hồ cho rằng để giải phóng thuộc địa, chỉ có con đường duy nhất là Đảng Cộng sản, do vậy Ông đã từ bỏ Đảng Xã hội và trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Sau đó, Ông sang Moscow, trở thành một thành viên của Quốc tế cộng sản và hoạt động năng nổ. Kể từ lúc đó, trong quá trình hoạt động của mình, Ông học được rằng: để giành được độc lập cho Việt Nam từ tay nhà nước Pháp, một trong những liệt cường của Tây Âu có lực lượng quân sự và chính trị khổng lồ, cần phải có một tổ chức đoàn kết chặt chẽ đóng vai trò trung tâm cho công cuộc giải phóng, cũng như cần hoạt động liên kết quốc tế nhằm nhận đƣợc sự đồng cảm rộng rãi từ quốc tế. Ông đồng tình với đề xướng của Lênin về Bôn-sê-vich, Đảng Cộng sản-một đảng tiên phong có kỷ luật sắt. Về điểm này, đúng là Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Lênin. Tuy nhiên, ngoài mặt tổ chức ra, Hồ Chí Minh cho rằng vấn đề cần ưu tiên nhất là đấu tranh giải phóng dân tộc giành lại độc lập cho Việt Nam chứ không phải là vấn đề giai cấp. Về mặt này, Hồ Chí Minh không phải là một người cộng sản "chính thống" theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Đối với những người cộng sản "chính thống", việc Hồ Chí Minh coi trọng giải phóng dân tộc, coi nhẹ đấu tranh giai cấp là hành động xa rời Chủ nghĩa Cộng sản, do đó, Ông Hồ đã bị phê phán một cách gay gắt. Vào những năm 1930, Hồ Chí Minh đã bị những người cộng sản Việt Nam trẻ tuổi như Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập phê phán một cách gay gắt và công khai. Furuta Motoo, tham khảo nghiên cứu  của Kurihara Hirohide. đã trích dẫn một phần lá thư của Ủy ban hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Quốc tế Cộng sản như sau:   
         "Ở Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã triển khai một cuộc đấu tranh công khai với đường lối của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội  - đường lối là tàn dư kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa cải lương duy tâm. Tàn dư này hết sức nặng nề và đang trở thành một chướng ngại cho sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Cần thiết phải đấu tranh không thương tiếc với chủ nghĩa cơ hội và lý luận kiểu cũ của Quốc và Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Chúng tôi đề xuất đồng chí Lin (Bút danh lúc đó của Nguyễn Ái Quốc  - Tsuboi) phải viết bản tự kiểm điểm bản thân.
         Trước những phê phán này, Ông Hồ đã phải thay đổi đôi chút lập trường của mình và phải rất vất vả để giữ được vị trí của mình trong Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, Ông đã bị gạt ra ngoài hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và bị buộc phải sang Moscow học tập. Nhưng cũng nhờ đó mà Ông Hồ đã thoát nạn. Dưới sự đàn áp khốc liệt của nhà đương cục thực dân, nhiều người Cộng sản hoặc bị chết hoặc bị xử tử. Lê Hồng Phong bị bắt tháng 6 năm 1938 và sau đó qua đời trong tù vào khoảng tháng 9 năm 1942. Hà Huy Tập bị bắt tháng 7 năm 1938, sau đó đƣợc thả ra một thời gian rồi bị bắt lại năm 1940 và bị xử tử vào tháng 8 năm 1941. Khi Ông Hồ trở về nước vào năm 1941, ở Việt Nam hầu như không còn một người Cộng sản "chính thống" nào. 
          Nhờ vậy, trong quãng thời gian 10 năm tính từ khi trở về nước năm 1941, Ông Hồ, dựa vào sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản cũng như tiếng tăm của mình, đã có thể hành động một cách tự do hơn theo những suy nghĩ của mình. 
       Có một giai thoại thể hiện rất rõ hình ảnh Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Cộng hòa. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại, chủ trì Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, xác định cách mạng là Cách mạng giải phóng dân tộc, công bố ý tưởng thành lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên thường gọi là "Việt Minh"). Tên gọi Việt Minh cho thấy mục tiêu của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là đánh đổ ách thống trị của Nhật và Pháp, giành lại độc lập, tập trung toàn lực vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. 
        Hồ Chí Minh nêu lên chủ trương của Việt Nam Độc lập Đồng minh là "liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, xu hướng, đảng phái chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho "xứ sở". Mục tiêu của Việt Nam Độc lập Đồng minh là "sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc."
Tuyên ngôn Độc lập 
         Tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được cho là do Hồ Chí Minh đặt. Nội dung của nó được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. Câu đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập có đề cập đến Hiến pháp Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp.  "Tất cả mọi ngƣời đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". 
        Tuyên ngôn Nhân quyền được viết trong Cách mạng Pháp năm 1791 đã trình bày nội dung tương tự như sau: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".  
       "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cƣớp đất nƣớc ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chúttự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhƣợc. Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xƣơng tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn". (Lược một đoạn - Tsuboi)
         "Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp" (trích ―Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945"). 
           Còn có một câu chuyện nữa về Hồ Chí Minh ít được biết đến. Sau khi thành lập Việt Minh năm 1941, để kêu gọi sự ủng hộ của các nước Đồng minh trong đó có cả Trung Quốc, Ông Hồ đã quay trở lại Trung Quốc. Tuy nhiên, do Việt Minh nằm dưới cái bóng của Chủ nghĩa Cộng sản nên Ông Hồ đã bị Quốc dân đảng nghi ngờ. Ông bị chính quyền địa phương của Quốc dân đảng bắt và bị giam từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943. Sau cùng, Quốc dân đảng nhận định rằng Việt Minh là thế lực chính trị chống Nhật trong phạm vi Việt Nam nên Ông Hồ đã được thả. Tháng 8 năm 1944, khi được tự do và chuẩn bị về nước, Hồ Chí Minh đã nói với tướng Trương Phát Khuê của Quốc dân đảng như sau: "Tuy tôi là một ngƣời cộng sản nhưng bây giờ vấn đề mà tôi quan tâm không phải là chủ nghĩa cộng sản mà là độc lập tự do của Việt Nam. Tôi xin hứa với anh 1 lời hứa đặc biệt: trong vòng 50 năm tới sẽ không thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam". (trích theo Furuta Motoo). 
Cách mạng Tháng Tám 
        Tuy nhiên, không thể có được Con người mới gánh vác độc lập tự do chỉ bằng đấu tranh giải phóng đơn thuần. Hồ Chí Minh biết rõ rằng, để đạt được điều đó cần một cuộc cách mạng làm đòn bẩy. Cuộc cách mạng đó ở Việt Nam là "Cách mạng Tháng Tá". Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện quân Đồng minh, nước Pháp bảo hộ thì chưa khôi phục được thế lực của mình. Cách mạng Tháng Tám là cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc do Việt Minh tổ chức nhân cơ hội đó nhằm giành quyền tự chủ thực sự cho Việt Nam. Nhận được tin Nhật đầu hàng, từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản đã tổ chức Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào, ra quyết định khởi nghĩa. Ngày 16-17 tháng 8, Việt Minh tổ chức Đại hội Quốc dân, quyết định thành lập Chính phủ lâm thời nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó, bắt đầu từ việc giành chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8, Việt Minh đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở các thành thị khác, xác lập được quyền làm chủ đất nước. 
       Kết quả của quá trình này là sự ra đời của bản Tuyên ngôn độc lập. Có nhà nghiên cứu cho  rằng Cách mạng Tháng Tám không đơn thuần là một cuộc đảo chính bằng vũ lực. Đúng là khi cách mạng nổ ra, quân Nhật, lúc đó đã đầu hàng Đồng minh, đã không tiến hành đàn áp cuộc khởi nghĩa của Việt Minh. Đồng thời ở Việt Nam cũng không có mặt quân Pháp và  quân Đồng minh. Nhờ vậy, cuộc khởi nghĩa đã diễn ra một cách tương đối dễ dàng và không phải đổ nhiều máu. Đối với Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng này chính là quá trình giành lại quyền lực của nhân dân dựa trên khát khao mạnh mẽ về tự do của họ, nó chính là quá trình xây dựng nên  Con người mới. 
Ý nghĩa của Độc lập - Tự do - Hạnh phúc 
        Ước mơ "Độc lập" từ lâu của Hồ Chí Minh là Việt Nam được giải phóng khỏi tay Thực dân Pháp và trở thành một nước độc lập. Nhưng Độc lập của Hồ Chí Minh không phải là khái niệm "độc lập" theo nghĩa cũ, vốn thường được lặp đi lặp lại trong  sách giáo khoa - là quá trình Việt Nam giữ vững được độc lập và bản sắc (identity) của mình trước  sự uy hiếp của Trung Quốc. Việt Nam có lịch sử khởi nghĩa, đánh bại, đánh đuổi sự xâm lược của các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh của Trung Quốc, nhưng sau mỗi lần đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam lại chỉ xây dựng một thể chế chính trị mô phỏng Trung Quốc. Nhưng "Độc lập" mà Hồ Chí Minh muốn xây dựng là một nước độc lập, một nhà nước chủ quyền theo kiểu Cận đại. Từ "Độc lập" của Ông bao hàm ý nghĩa xây dựng một quốc gia chủ quyền có lực lượng sánh vai được với các cường quốc trên thế giới. Ý tưởng của Ông là không chỉ xây dựng một chế độ Dân chủ Cộng hòa mà còn xây dựng nên hình ảnh những Con người mới đóng vai trò gánh vác quốc gia độc lập. 
         "Tự do" của Hồ Chí Minh rõ ràng chịu ảnh hưởng từ chữ "Tự do" trong khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" của Cách mạng Pháp và quyền mưu cầu Tự do của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tự do của Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là đất nước được độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do phát ngôn, hoạt động trên trường quốc tế, mà phải là thứ tự do được từng người dân ca ngợi. Nó cũng yêu cầu  mỗi người dân ca ngợi quyền tự do đó phải trở thành chủ thể xây dựng từ dưới lên trật tự của nền Cộng hòa, yêu cầu từng cá nhân phải có khả năng suy nghĩ, quyết định với tinh thần trách nhiệm cao. Nhà nước kiểu Cận đại chính là nhà nước xây dựng được hệ thống giáo dục đào tạo ra được những con người như vậy, đồng thời  có những thiết chế chính trị đi kèm đảm bảo cho việc giáo dục đó. Nước Cộng hòa của Hồ Chí Minh là Chủ nghĩa dân chủ kết hợp với Tự do. 
        Cuối cùng như được đề cập trong bản Tuyên ngôn độc lập, "Hạnh phúc" của Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của "quyền mưu cầu hạnh phúc" trong Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.  Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ chính là bản Hiến pháp đầu tiên viết rõ ràng về "quyền mưu cầu hạnh phúc".  Hạnh phúc là một từ có tính đa nghĩa, nhƣng ý nghĩa từng cá nhân có quyền mưu cầu hạnh phúc là một khái niệm hết sức mới mẻ của thời kỳ Cận đại. Lịch sử Việt Nam là lịch sử tranh sáng tranh tối của những cuộc đấu tranh chống lại sự xâm lược của Trung Quốc, đấu tranh chống lại những thảm họa thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán. Con người Việt Nam coi những nguy cơ đó là "bất hạnh", đặc điểm của Việt Nam là có lịch sử chiến đấu và chiến thắng những "bất hạnh" đó. Nếu coi những "bất hạnh" mà dân tộc Việt Nam phải chịu đựng là những thử thách của ông Trời mang lại để dân tộc Việt Nam phải vượt qua thì quả thực, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng và quả cảm. Thế nhưng, quá trình đó bản chất là một quá trình mang tính thụ động. Thông điệp về hạnh phúc của Hồ Chí Minh là thông điệp mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc và phải chủ động, tích cực tranh đấu để giành được hạnh phúc đó. Thông điệp đó của Hồ Chí Minh đã được đông đảo nhân dân Việt Nam đón nhận. 
       Trong bản Hiến pháp làm cơ sở cho nhà nước, Hồ Chí Minh đã tham khảo nước Cộng hòa Pháp và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và nêu lên ý tưởng về nước Việt Nam Dân  chủ Cộng hòa. Con người Hồ Chí Minh được phản ánh sắc nét trong Hiến pháp là một người theo Chủ nghĩa Cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo Chủ nghĩa Cộng sản. Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn Độc lập cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Trong vòng xoáy tương quan lực lượng quốc tế mà Việt Nam bị lôi vào, Liên Hiệp quốc đóng vai trò vô cùng quan trọng. Để các nước công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã có một hành động mạo hiểm là xóa đi hình ảnh người cộng sản của mình. Tháng 11 năm 1945, Ông Hồ đã ra quyết định dứt khoát giải tán Đảng Cộng sản. Đương nhiên, trên thực tế, tổ chức của Đảng vẫn được giữ nguyên, do đó cũng có thể coi nó như một "hành động ngụy trang". Thế nhưng, để được các nước công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Hồ đã lựa chọn con đường ưu tiên "quyền lợi dân tộc" lên trên "quyền lợi đảng phái". Về điểm này, chúng ta có thể nhìn thấy một phần cách suy nghĩ theo chủ nghĩa Cộng hòa của Hồ Chí Minh. 
Người Việt Nam có hiểu Hồ Chí Minh không? 
         Ở đây có một vấn đề là những người Việt Nam khác có hiểu được nguyên lý về  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà Hồ Chí Minh đã trình bày cũng như tinh thần nền Cộng hòa được đúc kết trong khẩu hiệu "Độc lập  - Tự do - Hạnh phúc" của Ông hay không?  Thật tiếc phải nói rằng thông điệp của Hồ Chí Minh hầu như không được truyền bá và lý giải một cách đầy đủ và đúng đắn. Người ta đã coi Ông như một người lãnh đạo của phong trào Cộng sản quốc tế, một người theo chủ nghĩa Marx-Lênin. Đó là vì sau Chiến tranh Thế giới II, thế giới rơi vào cục diện Chiến tranh Lạnh, Việt Nam đã bị đặt vào tiền tuyến xung đột của Chiến tranh Lạnh Đông  - Tây. Trong bối cảnh quốc tế đó, Hồ Chí Minh sau khi thành lập nước đã phải nhận sự hỗ trợ của Trung Quốc và Liên Xô, trở thành lãnh tụ lãnh đạo một cuộc chiến tranh lâu dài chống Pháp và Mỹ. Ai cũng lấy ý thức hệ làm chủ thể để lý giải Ông Hồ, và ngay bản thân Ông Hồ, để nhận được viện trợ tiếp tục công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mình, không có một sự lựa chọn nào khác ngoài việc phát ngôn và hành động như một thành viên của liên minh những ngƣời cộng sản. 
         Thế hệ kém Ông Hồ 10 tuổi như Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay ông Trần Văn Giàu, do chịu sự giám thị gay gắt của nhà đương cục thực dân, đã phải hoạt động tại nước ngoài một thời gian. Chính vì vậy, họ đã hiểu được tình hình bên ngoài và lý giải được một phần tinh thần nền Cộng hòa của Hồ Chí Minh. Sự lý giải của họ là nhờ vào kinh nghiệm sống ở các nước Âu Mỹ, chủ yếu là nước Pháp.
       Tuy nhiên đối với những thế hệ trẻ hơn, do phải tiến hành cách mạng và chiến tranh trên đất Việt Nam, nên hầu như không có mấy người có kinh nghiệm sống ở nước ngoài. Do đó, họ thiếu đi nền tảng tư tưởng để có thể lý giải được đầy đủ "Tinh thần nền Cộng hòa" mà Hồ Chí Minh đã đúc kết được sau 30 năm bôn ba ở hải ngoại. Càng đến những thế hệ trẻ hơn, người ta càng có xu hướng lý giải Hồ Chí Minh chỉ theo góc độ là nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản. Cùng với việc thần tượng hóa Hồ Chí Minh, người ta đang đánh mất đi khả năng lý giải nội tại Hồ Chí Minh với tư cách là một CON NGƯỜI bình thường.    
-------------------------------
Theo Blog http://chuyencuachi.blogspot.com/2011/11/khao-cuu-lai-ve-ho-chi-minh.html?showComment=1321020980126#c4574668536704887927

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Lại thêm một công trình nữa sử dụng bài viết của mình mà không biết

Hôm nay có chút thời gian rảnh vào mạng đọc báo, thử search tên mình thì lại phát hiện ra 1công trình nữa về văn hoá ...sử dụng bài viết của mình mà không biết, bài sử dụng trong cuốn sách này là "Lễ hội đình làng Tất Thắng" ở huyện Thanh Sơn - Phú Thọ!

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

Luật Quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TS Nguyễn Hồng Thao)

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc

Để hiểu rõ câu chuyện, có thể tham khảo Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHND Trung Hoa năm 1980 và Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN năm 1979, 1981 và 1988. Nhằm chứng minh sự quản lý của Trung Quốc (TQ) trên các đảo tranh chấp này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao TQ chỉ đưa ra được ba sự kiện sau:

- Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960 - 1127) Hải quân TQ đã đi tuần tra đến vùng biển quần đảo Tây Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu có lời tựa của vua Nhân Tông đời Bắc Tống. Đoạn trích trong văn kiện chính thức của TQ như sau:
“Triều đình Bắc Tống lệnh cho Vương Sư đi phòng giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay) và “đóng tàu chiến đao ngư”.
Tác phẩm trên còn khẳng định: “Từ Đồn Môn Sơn, dùng gió Đông hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu. Cửu Nhũ Loa Châu là quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ quần đảo Tây Sa đã thuộc phạm vi cai quản của đời Bắc Tống”.
Theo Sách trắng 1981 của VN thì đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu này là sự kết hợp ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa:
“Lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở hai cửa biển phía Đông và phía Tây rộng 280 trượng đến Đồn Môn Sơn 200 lý đóng tàu chiến đao ngư. Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn (thuộc địa giới nước Hoàn Châu), ([1]) đi 300 hải lý nữa về phía Nam đến lăng Sơn Đông. Phía Tây Nam nơi đó là các nước Đại Thực Phật, Sư Tử, Thiên Trúc không thể tính được hành trình”.
Rõ ràng trong đoạn trích kể trên của Vũ Kinh tổng yếu, có đoạn văn Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (Quảng Đông ngày nay)”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của đồn binh nhắc trên, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý, đúng hơn là tuần tra lãnh thổ TQ. Không có gì trong đoạn trích trên cho phép khẳng định rằng Cửu Nhũ Loa Châu chính là quần đảo Tây Sa. Đối với chúng ta, đó không thể là bằng chứng đầy đủ chứng minh rằng ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của TQ và “Hải quân TQ đã đi tuần tới các đảo Tây Sa”.
- Sự kiện thứ hai: Việc đo thiên văn trong biển Nam Hải vào đầu đời Nguyên đã khẳng định rằng các đảo là một bộ phận của lãnh thổ TQ.
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ 1980 viết:
“Năm thứ nhất đời Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn 27 nơi trong nước, nhà Nguyên năm thứ 16 (Công nguyên năm 1279) Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân sai Đồng Trí Thái, Sử viện sử Quách Thụ Kinh, nhà thiên văn nổi tiếng đến biển Nam tiến hành đo đạc. Theo Nguyên Sử, điểm thiên văn Nam Hải nằm ở phía Nam Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam) và kết quả đo đạc cho thấy Nam Hải ở vĩ tuyến Bắc 15 độ. Điểm thiên văn Nam Hải chính là ở quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó nói rõ quần đảo Tây Sa thời Nguyên đã là nằm trong biên thùy TQ”.
Thực ra, Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau:
“Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”.
Khái niệm “bốn biển”, theo ngôn từ TQ, chỉ rằng các lãnh thổ này nằm ngoài lãnh thổ quốc gia. Trên thực tế, dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực TQ như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Chính Nguyên Sử cũng nói rõ “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi.
Các quan trắc thiên văn trên có phần tiến hành trên lãnh thổ TQ, có phần nằm ngoài cương vực TQ. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền TQ. Ngay cả khi điểm quan sát thiên văn “Nam Hải” nằm trên các đảo Tây Sa, thì việc quan sát thiên văn đó… cũng không đủ để thể hiện ý chí của “Chính phủ đó thực hiện chủ quyền trên các đảo đá nhỏ này”. Hơn nữa một hành động nghiên cứu khoa học không thể tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.
[1] Bất Lao Sơn: Cù Lao Chàm; Hoàn Châu: Nước Chămpa

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 6: Những luận cứ chủ quyền không vững chắc

- Sự kiện  thứ ba: Ngô Thăng, phó tướng thủy sư Quảng Đông đã thực hiện việc  tuần biển vào khoảng các năm 49 và 51 đời nhà Thanh (1710 - 1712). “Tự Quỳnh Thôi, lịch Đồng Cổ, kinh Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, Châu Tào tam  thiên  lý, Cung  tự tuần thị (từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, qua Thất Châu Dương, Tứ Canh  Sa,  vòng  quanh  ba  ngàn  dặm,  đích thân đi tuần tra xem xét). Gọi Thất Châu Dương ở đây tức quần đảo Tây Sa ngày nay, lúc bấy giờ do hải quân Quảng Đông phụ trách đi tuần”.

Việc nghiên cứu nghiêm túc lại cho ta một sự  thật khác hẳn. Những địa danh nêu trong đoạn trích trên đều nằm xung quanh  đảo Hải Nam,  theo  các  tác  giả VN ([1]) :
-  Quỳnh Nhai, tức “Đạo binh bị Quỳnh  Nhai” (Đảo Hải Nam) đời Thanh, sở tại Quỳnh Sơn gần thị trấn Hải Khấu ngày nay, phía bắc đảo Hải Nam.
- Đồng Cổ ở mỏm đông bắc đảo Hải Nam
- Thất Châu Dương  là vùng biển có bảy hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía đông đảo Hải Nam.
- Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía tây đảo Hải Nam.
Các địa danh  trên đều được  tìm  thấy trên các hải đồ TQ. Trong hải đồ N 5012 tỷ lệ 1/500.000 do hải quân TQ  xuất bản bằng tiếng TQ  và  tiếng VN  tháng  5.1956  có  tiêu đề: “Vùng  phụ  cận  Lôi Châu  và  đảo Hải Nam”,  và các bản đồ “Bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam”, và Nam Hải địa  hình  đo, tỷ  lệ  1/300.000.000 do  Nhà xuất  bản  địa  đồ TQ  xuất  bản  tháng  5.1984,  có  nhóm  đảo có tên Thất Châu Đảo và vùng biển  xung  quanh các đảo nhỏ đó ở phía đông nam của  đảo  Hải  Nam  được  gọi  tên  đúng  là Thất  Châu Dương. Rõ ràng tên này không được dùng để chỉ toàn bộ biển phía Nam Trung Hoa. Ngoài  ra, trong cuốn Quảng  Đông  dư  địa  đồ thuyết in năm  1909, Lý Hàn  Chung đã nói về các cuộc tuần biển của hải quân Quảng Đông như sau:
“Biên giới  trên biển ngày nay  lấy phía Nam đảo Hải  Nam  làm  giới  hạn,  bên  ngoài  là  Thất  Châu Dương, Đô  đốc  thuỷ  quân Quảng Đông  đi  tuần  đến đó là quay về”.
Ở  đây một  lần  nữa,  chúng  ta  không  thấy  bất  kỳ một ghi chép chính xác nào về các đảo Paracel dưới tên gọi Tây Sa.
Hơn  nữa,  các  hành  vi  quản  lý  mà  TQ viện dẫn, nếu đúng, chỉ  liên quan tới các đảo Tây Sa mà  không  nhắc  gì  đến  các  đảo  Nam  Sa.  Đối  với Spratly, TQ chỉ nêu ra được  sự kiện  năm 1883  khi  tàu  nghiên  cứu  của  Đức  tiến  hành các nghiên cứu  khoa  học  tại  quần  đảo  Nam  Sa,  chính quyền Quảng Đông đã phản  đối  (theo  Heinzig,  sự kiện này  liên quan Tây Sa hơn là tới Nam Sa). Việc phía TQ thiếu một  danh  nghĩa  chiếm hữu của Nhà nước được xác lập một cách vững chắc và từ lâu đời làm cho việc phản đối ngoại giao dựa trên cơ sở quyền thụ  đắc  theo  thời  hiệu  để  ngăn chặn một hành động như vậy không  còn  giá  trị. Đúng  hơn  nó chỉ được coi như một  tham vọng chủ quyền mà thôi.
Để chứng minh cho lập  luận của họ, các tác giả TQ  viện dẫn  tới  cả  các  chuyến đi  của Thái giám  Trịnh  Hòa  trong  thời  gian  từ  1405  đến  1433 qua các đảo này. Tuy nhiên các chuyến đi này không được Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ nhắc đến. Các chuyến đi của Trịnh Hòa tới Java, Ấn Độ và bờ biển Phi châu chỉ có giá trị tạo uy danh cho triều Minh ([2]) và Trịnh Hòa cũng không đưa ra một yêu sách  tạo lập danh nghĩa chiếm hữu  các đảo nào thay mặt thiên triều TQ. ([3])  
Các thí dụ kể trên chỉ  tạo  ra sự nhận biết về các đảo, đúng hơn là một số đảo. Nếu các đảo trong biển Đông được các thủy thủ và ngư dân TQ biết tới là điều không phải bàn cãi thì việc khẳng định chủ quyền  TQ trên  các  quần  đảo  này  thật  khó thuyết  phục.  Trong  các  sách  và  văn  kiện do TQ trích dẫn, không có một ghi chép nào về quyền phát hiện hoặc sự củng cố một danh nghĩa chiếm hữu các  đảo  này, và về  thực chất không  thể hiện ý định thực  thi chủ quyền tại đó của họ.
Các  sự kiện kể  trên diễn  ra với khoảng thời gian cách quãng  200-500  năm. Điều  đó  rõ  ràng  làm yếu thêm lập luận của TQ, theo đó các Hoàng đế Trung Hoa đã quản  lý các đảo này  từ hai nghìn năm nay một cách liên tục và không ngắt quãng.
Để chứng minh chủ quyền, cần phải cung cấp các bằng  chứng  liên  quan  trực  tiếp  tới  việc  chiếm  hữu. D.L Bennett, luật gia Mỹ, nhận xét:
“Nếu các đảo hoặc không được quản lý bởi một chính phủ hoặc không được thăm viếng bởi các nhân viên nhà nước, vấn đề đặt ra  là liệu những cuộc tiếp xúc riêng rẽ bởi các ngư dân tư nhân TQ có đủ  để  thiết  lập  chủ  quyền trên  Spratly  theo  luật quốc  tế  không. Vì  vậy  giá  trị  của  lập  trường  chính thức của TQ là đáng nghi ngại”. ([4])
[1] Vũ Phi Hoàng, Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lãnh thổ Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 88;  Nguyễn Quang Ngọc, Sđd.
[2] BBC, ngày 27 tháng 11 năm 2008
[3] Năm 2005 Trung Quốc tuyên  truyền nhiều về Trịnh Hòa, tổ chức thi  "Nhịp cầu Hán ngữ" kỷ niệm các chuyến đi  của ông, gọi ông  là nhà hàng hải  vĩ  đại ngang  tầm Colombo  nhằm mục đích  gắn chuyến  đi  của Trịnh Hòa với quyền phát hiện. 
[4] D.L Benne, “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc sử dụng luật pháp quốc  tế  trong  vụ  tranh  chấp  các  đảo  Spratleys”,  Stanford  Journal  of International Law, quyển 28 (1991-1992), tr. 435.

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 7: Tư liệu phía Việt Nam

Các tác phẩm và các văn kiện chứng minh quyền phát hiện và chủ quyền  của VN trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có niên đại chỉ từ thế kỷ XV, các văn kiện trước đó có  lẽ bị tiêu hủy và thất lạc dưới thời Bắc thuộc và các cuộc chiến tranh liên miên. 

Tác phẩm cũ nhất có nói về sự tồn tại của các đảo là Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630  - 1653) do Đỗ Bá, tự Công Đạo soạn. Tài liệu này bao gồm các bản đồ An Nam từ thế kỷ XV trong đó có tấm vẽ các quần đảo Paracels và Spratlys trong biển Đông dưới tên gọi Bãi Cát Vàng và Trường Sa, thuộc phủ Quảng Ngãi:

“Giữa  biển  có  một  dải  cát  dài,  gọi  là  Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vĩnh. Một lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy, có gió Đông Bắc thì thương thuyền  chạy  ở  ngoài  cũng  trôi  dạt  ở  đấy,  đều  cùng chết đói cả, hàng hóa thì đều để ở nơi đó”.
Trong Phủ biên  tạp  lục (1776), Lê Quý Đôn, Hiệp trấn Thuận Hóa viết:
“Phủ  Quảng  Ngãi,  huyện  Bình  Sơn, có  xã  An Vĩnh, ở  gần  biển, ngoài  biển  về  phía Đông Bắc, có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn một trăm ba mươi ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn ba mươi dặm, bằng  phẳng,  rộng  lớn, nước trong suốt đáy”.
Đại  Nam  thực  lục  tiền  biên,  phần  về  các  chúa Nguyễn  (1600  -  1775),  quyển X ghi nhận địa danh Hoàng Sa và Trường Sa và các hoạt động quản lý của các chính quyền VN:
“Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài  biển, có  hơn  một  trăm ba  mươi  bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài  trống  canh, kéo dài  không  biết  mấy  ngàn dặm, tục gọi  là Vạn Lý Hoàng Sa, trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích… Hồi  đầu  dựng  nước,  đặt  đội  Hoàng  Sa  gồm  70 người,  lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ dân ở phường Tư Chính, ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn, thu  lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.([1])
Các  tác phẩm chính thức khác do Quốc Sử quán biên soạn và in dưới thời nhà Nguyễn như Đại Nam thực lục chính biên (1848), Khâm định Đại Nam hội diễn sử lệ (1843 - 1851), Đại Nam nhất thống chí (1865  -  1882), Lịch  triều  hiến chương  loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876) đều chép tương tự về Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ quyển 165 còn khẳng định sự đánh giá của Bộ Công  tâu  lên Vua  năm  Bính  Thân,  niên  hiệu Minh Mạng  thứ 17  (1836,  tức năm Đạo Quang  thứ 16 đời Thanh): “Xứ  Hoàng  Sa  thuộc  cương  vực  mặt  biển nước ta rất là hiểm yếu”. Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý lịch sử chung  thống nhất của Đại Nam, phần Hình thể nói về tỉnh Quảng Ngãi “phía đông có đảo Hoàng Sa liền với biển xanh làm hào che…”. Đó đều là các nguồn chính thức và có giá trị chân thực.
Viện Hán Nôm Hà Nội còn lưu trữ hàng chục châu bản  triều Nguyễn gồm các bản  tấu, phúc tấu của các Bộ Công, Bộ Hộ, các cơ quan khác, các dụ của các vua về các hoạt động thực thi chủ quyền của VN trên quần đảo.
Một số bản đồ VN vẽ các đảo này như bộ phận của lãnh  thổ VN, nhất  là Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838). Ngoài ra các sách địa lý lịch sử như Sử  học bị khảo của Đặng Xuân Bảng, Địa dư toát  yếu (niên  hiệu Duy Tân 1907-1916), Quảng Thuận đạo sử tập, Trung kỳ địa dư lược, Quảng Ngãi tỉnh chí đều có những đoạn văn và bản đồ xác nhận Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Trong gia phả của các họ Phạm, họ Đặng trên đảo Lý Sơn còn lưu giữ các sắc chỉ của vua Minh Mạng giao cho dòng họ chọn những  thanh niên khỏe mạnh và giỏi bơi lội để gia nhập đội Hoàng Sa... ([2])
[1] Đại Nam thực lục tiền biên, NXB Sử học, Hà Nội, 1962, t.1, tr.22
[2] “Phát  hiện  tài  liệu  quý  liên  quan  đến  quần  đảo Hoàng  Sa”,  Lao Động số 71 ngày 1.4.2009.

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 8: Đi đến luận cứ chắc chắn

Trên cơ sở các ghi chép và bản đồ cổ của VN, có những nhận xét sau:

1. Ngay từ thời chúa Nguyễn, người VN đã có hiểu biết khá tường tận về sự hiện diện của các đảo này. Mô tả các đảo chi tiết hơn, chính xác hơn sự mô tả của phía TQ.
2. Các dấu hiệu của việc phát hiện và sự khẳng định chiếm hữu trên các đảo đã được ghi nhận với quyết định của các chúa Nguyễn cử đội thuyền tới đó hằng năm trong nhiều tháng.
Vấn đề đặt ra là các hoạt động mang tính nhà nước này đã diễn ra chính xác tại đâu? Đối với người VN đây là các hành động nhằm khẳng định danh nghĩa chiếm hữu trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngược lại phía TQ lại cho rằng: quần đảo Hoàng Sa mà VN nói hoàn toàn không phải là quần đảo Tây Sa của TQ mà chỉ có thể là những đảo và cồn cát ở ven biển miền Trung VN” ([1]) với hai lập luận.
Thứ nhất, Hồng Đức Bản Đồ ghi rằng từ bờ biển VN tới Hoàng Sa phải mất một ngày rưỡi; thế nhưng với kỹ thuật hàng hải lúc đó, “đi thuyền buồm nửa ngày hoặc một ngày rưỡi thì hoàn toàn không thể đến”. Thứ hai, Phủ biên tạp lục ghi Hoàng Sa gồm hơn một trăm ba mươi núi, trong khi Tây Sa “địa thế thấp, bằng phẳng” và chỉ có “ba mươi nhăm đảo, đá ngầm và bãi cát”; và cũng theo Phủ biên tạp lục “Bãi Cát Vàng ước chừng ba mươi dặm, trong khi chiều dài của đảo Vĩnh Hưng, đảo lớn nhất trong quần đảo Tây Sa của TQ cũng không tới 2 km, diện tích cũng chỉ có 1,85 km2”. ([2])
Phía VN đáp trả rằng trên tất cả các bản đồ cổ đều phân biệt rõ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với các đảo ven bờ VN. Người TQ cố tình không tham khảo các sách sử chính thức của VN như Đại Nam nhất thống chí (1865 - 1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Việt sử cương giám khảo lược (1876) đều nói tới khoảng cách từ 3 đến 4 ngày đi biển.
Trong Đại Nam nhất thống chí (1882), có đoạn viết:
“Đảo Hoàng Sa ở phía đông Cù Lao Ré, huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ ra khơi thuận gió, ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có đến hơn một trăm ba mươi đảo nhỏ, cách nhau khoảng một ngày đường hoặc vài trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm tục gọi là Vạn Lý Trường Sa”.
Bản đồ biển Đông do Nhà xuất bản Luân Đôn in năm 1791 - A new chart of the China Sea with its several entrances, printed for Robert Sayer, London năm 1791. Bản đồ này có điểm khác biệt là thể hiện quần đảo Paracels nằm trong hình cờ đuôi nheo ghi rõ according to the Draft of Cochinchina Pilot 1764 (vẽ theo dự thảo Hàng hải chỉ nam của xứ An Nam năm 1764). Tài liệu này chứng tỏ trong khi xây dựng các tài liệu hướng dẫn hàng hải, các nhà hàng hải phương Tây đã tham khảo các hiểu biết của chính quyền An Nam và đã thừa nhận quần đảo này thuộc An Nam.

Lúc đầu, người VN khi phát hiện ra Hoàng Sa chỉ biết đó là một vùng có rất nhiều đảo, đá, bãi ngầm trải dài mấy ngàn dặm mà không phân biệt được đó là hai quần đảo riêng biệt. Họ gộp chung hai quần đảo dưới cùng một tên gọi Đại Trường Sa - Hoàng Sa - Vạn Lý Trường Sa. Sau này, dưới triều Nguyễn, để chính xác hơn, mỗi quần đảo có một tên gọi riêng: Paracels được giữ tên Hoàng Sa còn Spratlys là Vạn Lý Trường Sa, và sau gọi ngắn gọn là Trường Sa ([3]).
Trong tấm bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) mỗi quần đảo đều có tên riêng: Vạn Lý Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên, chúng vẫn còn được coi là một; trên bản đồ, cả hai quần đảo đều được khoanh lại trong một vòng tròn vẽ đứt đoạn. Về mặt quản lý hành chính, Hoàng Sa là đội kiêm quản đội Bắc Hải, có nhiệm vụ khai thác các đảo ở phía nam và trong khu vực Côn Đảo. Địa danh và khu vực hoạt động của đội Bắc Hải phù hợp với khu vực Trường Sa. Ngày nay, số các đảo, đá, bãi nổi của cả hai quần đảo hợp lại đều cho con số khoảng một trăm ba mươi tùy theo cách tính.
[1] Sách trắng Bộ Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1980, tr.11. Hàn Chấn Hoa, “Các đảo Paracels nói trong các sách phương Tây không phải là quần đảo Tây Sa của nước ta”, Quang Minh nhật báo, Bắc Kinh, ngày 5 tháng 4 năm 1980.
[2] Hàn Chấn Hoa. Sđd.
[5] Lãng Hồ, “Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Tập đặc san Sử Địa, số 29, Sài Gòn, 1975, tr.73

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 9: Tư liệu khách quan thừa nhận chủ quyền Việt Nam

Để giải quyết cuộc tranh luận dai dẳng xung quanh danh nghĩa lịch sử, cách tốt nhất là nên tham khảo ý kiến bên thứ ba.

Người phương Tây đã từng nói về sự quy thuộc của quần đảo Paracel vào An Nam. Các nhà truyền đạo Pháp trên tàu Amphitrite trên đường sang TQ đã ghi trong một bài tiếng Pháp năm 1701: “Paracel là một quần đảo thuộc Vương quốc An Nam. Đó là một bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các tai nạn đắm tàu ở đó” ([1]).
Jean-Louis Taberd ghi nhận:
“Pracel hoặc Paracels (Bãi cát vàng), mặc dù quần đảo này không có gì ngoài các đá, bãi và độ sâu lớn hứa hẹn nhiều bất tiện lợi hơn, Vua Gia Long đã nghĩ tới việc mở rộng lãnh thổ của ngài bằng cách chiếm thêm vùng đất buồn bã này. Năm 1816, ngài đã tới đây long trọng cắm cờ, chính thức chiếm hữu các đảo đá này, mà không một ai tranh giành gì với ngài cả”([2]).
Về phần mình, J.B.Chaigneau, cố vấn của nhà vua An Nam, đã viết trong cuốn hồi ký về nước Cochinchine:
“Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi Hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh… một vài đảo có dân cư không xa biển và quần đảo
Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp thành. Chỉ tới năm 1816, Hoàng đế mới chiếm hữu quần đảo này”([3]).
Dubois de Jancigny trong Thế giới, lịch sử và mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Ceylan có viết: “Chúng tôi quan sát thấy rằng từ ba mươi tư năm nay, quần đảo Paracel (người An Nam gọi là Cát vàng), một ma hồn trận thật sự của các đảo nhỏ, các đá và các bãi cát đầy ngờ vực của các nhà hàng hải và có thể được coi là hoang dã và vô tích sự nhất trong số các điểm của quả địa cầu, đã được người An Nam (Cochinchine) chiếm hữu. Chúng tôi không để ý liệu họ có tạo nên một công trình nào trên đó không (nhằm mục đích, có thể, bảo vệ nghề cá); nhưng chắc chắn rằng Vua Gia Long đã gắn thêm vòng hoa này vào vương miện của người, bởi vì ngài đã thân chinh tới đó chiếm hữu, việc này xảy ra vào năm 1816 khi ngài long trọng kéo cờ của An Nam lên đó”([4]).
Gutzlaff trong bài Địa lý Vương quốc Cochinchine xuất bản năm 1849 tại London (Anh) cũng ghi Cát Vàng (để chỉ Paracel) thuộc Cochinchine. Gutzlaff viết:
“Không biết vì san hô hay vì lẽ khác mà các ghềnh đá ấy lớn dần, nhưng rõ ràng nhận thấy các đảo nhỏ ấy càng năm càng cao, và một vài cái bây giờ đã có người ở thường xuyên, thế mà chỉ mấy năm trước sóng đã vỗ dập qua. Những đảo ấy đáng lẽ không giá trị nếu nghề chài ở đó không phồn thịnh và không biết bù hết mọi nguy nan cho kẻ phiêu lưu. Từ lâu đời, những thuyền phần lớn từ đảo Hải Nam tới, đã hằng năm đến thăm các bãi nổi này và tiến hành cuộc viễn du xa xa tới tận bờ đảo Borneo. Tuy rằng hằng năm hơn phần mười bị đắm, nhưng cá đánh được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết được mọi thiệt thòi, mà còn để lại món lợi rất to. Chính phủ An Nam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế được đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế mà mọi người ngoài tới đây đều phải trả, và để bảo trợ người đánh cá bản quốc” ([5]).
Trong Địa lý tóm tắt của Ý (Compendio di Geografia) do Adriano Balbi soạn năm 1850, trang 641 mô tả về địa lý Vương quốc An Nam có ghi: Cũng thuộc vương quốc này còn có quần đảo Paracel, nhóm đảo Pirati và nhóm đảo Poulo Condor (tức Hoàng Sa, nhóm đảo Hải Tặc và Côn Đảo). Cũng trong tác phẩm này tr.644-648 về địa lý Trung Hoa không viết gì về Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngay cả các sách TQ cũng công nhận việc quy thuộc các đảo này vào An Nam. Chúng ta có thể đọc được điều đó trong phần tựa cuốn Hải Lục năm 1842 trong đó Vương Bính Nam đã so sánh các điều mắt thấy tai nghe do Tạ Thanh Cao, một thủy thủ TQ từng đi nhiều nước nhiều vùng về kể lại:
“Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên giậu của An Nam”.
Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán (người TQ) năm 1696 ([6]) quyển III đoạn thuật lại chuyến đi về Quảng Đông bắt đầu đi từ Quảng Nam viết: “…bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là "Vạn lý Trường Sa", mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo, không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm ([7]). Các quốc vương thời trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các tàu thuyền hư hỏng dạt vào". Đoạn văn mô tả này đã xác nhận việc hành xử chủ quyền của thời Chúa Nguyễn qua hoạt động thu lượm hóa vật của Đội Hoàng Sa.
Các mô tả về Paracel từ các nguồn nước ngoài chứng tỏ Hoàng Sa không phải là các đảo ven bờ biển Trung VN. Trong khi có khá nhiều nguồn tài liệu trung gian chứng minh sự chiếm hữu Paracels của các Chúa và Vua Nguyễn, không có một nguồn tư liệu nước ngoài nào chỉ rõ sự chiếm hữu các đảo này của TQ.
[1] Trích dẫn theo P.B Lafont, Sđd, tr.248.
[2] J.L Taberd, Ghi chép về địa lý Nam Kỳ trong the Journal of Bengal, Calcutta, serie VI, September 1837, tr.737 - 745.
[3] Tập san của người bạn cũ của Huế, số 2,1923, tr.257.
[4] M.A Dubois de Jancigny, Thế giới, lịch sử và mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Xeylan, Paris éd, Firmin Didot Freres, 1850, tr. 555.
[5] Journal of the Geographical Society of London (Tạp chí Hội Địa lý London), quyển 19 (1849), London, John Murray, 1849, tr. 93-94.
[6] Hải ngoại ký sự là ghi chép chuyến đi của tác giả Đại Sán Hán Ông, tên là Thạch Liêm từ chùa Trường Thọ tỉnh Quảng Đông đến vùng Thuận Quảng nước Đại Việt vào năm Ất Hợi triều Vua Khang Hy (1695) và trở về Trung Quốc vào năm sau (1696). Sách nguyên bản chữ Hán gồm 6 quyển đã được Viện Đại học Huế dịch trọn bộ ra Quốc ngữ năm 1963. Sau này người TQ đã dựng nên một chiến dịch nói xấu tác giả, chứng minh ông là người không bình thường, là kẻ điên để giảm bớt tính chân thực của tác phẩm. Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr. 43.
[7] Phạm Hoàng Quân cho rằng ở đây có lỗi dịch Hán-Nôm, thất canh lộ không phải là 7 ngày đêm, canh ở đây là đơn vị chiều dài. Tuy nhiên ông cũng công nhận một canh khoảng trăm dặm. Như vậy về khoảng cách Hải ngoại ký sự mô tả khá chính xác khoảng cách từ bờ đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách dịch đúng được đề xuất là: “Quãng ấy cách Đại Việt bảy canh đường, chừng bảy trăm dặm”.

 Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 10: Ý chí khẳng định chủ quyền Việt Nam

Các bằng chứng do VN đưa ra cho thấy các hoạt động do các chúa và các vua nhà Nguyễn trên Hoàng Sa và Trường Sa thường tiến hành trên năm lĩnh vực sau:
1. Tổ chức khai thác có hệ thống các đảo.
2. Tổ chức công tác khảo sát đo đạc nhằm hiểu biết rõ lãnh thổ và đồng thời để kiểm tra, kiểm soát biển.
3. Xây dựng các miếu, đền, trồng cây như các dấu hiệu tượng trưng chủ quyền An Nam trên các đảo.
4. Tổ chức thu thuế tại chỗ.
5. Cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn.
Về việc tổ chức các đội  Hoàng Sa và Bắc Hải nhằm khai thác các tài nguyên sản vật trên biển, Phủ biên tạp lục (1776) có ghi:
“Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương ăn đủ sáu tháng, đi bằng chiếc thuyền tiểu câu ra biển ba ngày ba đêm thì đến các đảo ấy rồi ở  lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa,  hoa  bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột cốc hoa, rất nhiều.
Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về… Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tu Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hóa vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản”([1]).
Với việc dựng các đội thủy quân đặc biệt để khai thác các đảo, các chúa và vua nhà Nguyễn đã tỏ rõ ý chí nhà nước. Hoạt động này được tiến hành hằng năm và được đặt dưới kỷ luật nhà nước. Các đội viên có quyền được cấp giấy sai đi, được miễn thuế sưu, tiền đò và được thưởng tiền. Ngược lại, ai không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị trừng phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của lỗi. Các chuyến đi và tuần tra các đảo được tổ chức thường xuyên. Mỗi khi hoàn cảnh đòi hỏi phải tạm hoãn, đều phải có chỉ dụ của nhà vua.
Ngay cả dưới thời Tây  Sơn, triều đại ngắn ngủi, gián đoạn thời nhà Nguyễn, truyền thống đó vẫn được duy trì không ngắt đoạn.
Sách Đại Nam thực lục chính biên (1848) ghi nhận một loạt các hành động của vua Nguyễn để củng cố chính quyền của họ trên các đảo. Năm 1815, 1816, 1833, 1834, 1835, 1836, vua Gia Long và người kế nhiệm ông - vua Minh Mạng đều ra chiếu chỉ lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa tới các đảo Hoàng Sa để ghi lại lộ trình. Quyển 165 viết:
“Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836)... Bộ Công tâu: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ  nhưng vì tình thế xa rộng, nên mới chỉ vẽ được một nơi, lại cũng chưa biết nên làm thế nào. Hằng năm thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, phái thủy quân, biền binh và giám thành đáp một chiếc thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Nghĩa (Ngãi - TN), giao cho hai tỉnh Quảng Bình, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa.
Không cứ là đảo nào, bãi nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức là chiếu chỗ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi Việt Nam và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi  ngầm, đá  ngầm  hay  không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét, đo đạc kỹ càng, vẽ thành bản đồ. Lại chiếu ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến nơi  ấy, căn cứ vào thủy trình đã qua, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông ra bờ biển, đối thẳng vào tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, ước lượng cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm, đều nhất nhất phải nói rõ, lần lượt đem về dâng trình.
Vua y lời tâu, sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi chuẩn bị mang theo 10 cái bàn gỗ, đến nơi dựng lên làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dài 1 tấc, mặt bài khắc chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.
[1] Trích từ Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam năm 1981, tr 9 - 11.
TS Nguyễn Hồng Thao