Trang

Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 20 tháng 8, 2011

Luật Quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (TS Nguyễn Hồng Thao)

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 5: Độ chênh của lịch sử trong Sách trắng Trung Quốc

Để hiểu rõ câu chuyện, có thể tham khảo Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHND Trung Hoa năm 1980 và Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN VN năm 1979, 1981 và 1988. Nhằm chứng minh sự quản lý của Trung Quốc (TQ) trên các đảo tranh chấp này từ hàng nghìn năm, Bộ Ngoại giao TQ chỉ đưa ra được ba sự kiện sau:

- Sự kiện thứ nhất: Từ thời nhà Tống (960 - 1127) Hải quân TQ đã đi tuần tra đến vùng biển quần đảo Tây Sa. Sự khẳng định này dựa trên cơ sở đoạn văn trích từ Vũ Kinh tổng yếu có lời tựa của vua Nhân Tông đời Bắc Tống. Đoạn trích trong văn kiện chính thức của TQ như sau:
“Triều đình Bắc Tống lệnh cho Vương Sư đi phòng giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (tức Quảng Đông ngày nay) và “đóng tàu chiến đao ngư”.
Tác phẩm trên còn khẳng định: “Từ Đồn Môn Sơn, dùng gió Đông hướng Tây Nam 7 ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu. Cửu Nhũ Loa Châu là quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó chứng tỏ quần đảo Tây Sa đã thuộc phạm vi cai quản của đời Bắc Tống”.
Theo Sách trắng 1981 của VN thì đoạn trích từ Vũ Kinh tổng yếu này là sự kết hợp ba đoạn riêng rẽ khác nhau trong một đoạn sau lời tựa:
“Lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở hai cửa biển phía Đông và phía Tây rộng 280 trượng đến Đồn Môn Sơn 200 lý đóng tàu chiến đao ngư. Từ Đồn Môn Sơn dùng gió Đông đi về hướng Tây Nam bảy ngày thì đến Cửu Nhũ Loa Châu, đi ba ngày nữa đến Bất Lao Sơn (thuộc địa giới nước Hoàn Châu), ([1]) đi 300 hải lý nữa về phía Nam đến lăng Sơn Đông. Phía Tây Nam nơi đó là các nước Đại Thực Phật, Sư Tử, Thiên Trúc không thể tính được hành trình”.
Rõ ràng trong đoạn trích kể trên của Vũ Kinh tổng yếu, có đoạn văn Bắc Tống “lệnh cho quân nhà vua đi trấn giữ đặt dinh lũy thủy quân tuần biển ở Quảng Nam (Quảng Đông ngày nay)”, “đóng tàu chiến đao ngư”, có đoạn mô tả vị trí địa lý của đồn binh nhắc trên, đoạn khác tả lộ trình đi từ cảng Quảng Nam tới tận Ấn Độ Dương. Đó là hành trình khảo sát địa lý, đúng hơn là tuần tra lãnh thổ TQ. Không có gì trong đoạn trích trên cho phép khẳng định rằng Cửu Nhũ Loa Châu chính là quần đảo Tây Sa. Đối với chúng ta, đó không thể là bằng chứng đầy đủ chứng minh rằng ngay từ thời nhà Tống, quần đảo Hoàng Sa đã thuộc quyền quản lý của TQ và “Hải quân TQ đã đi tuần tới các đảo Tây Sa”.
- Sự kiện thứ hai: Việc đo thiên văn trong biển Nam Hải vào đầu đời Nguyên đã khẳng định rằng các đảo là một bộ phận của lãnh thổ TQ.
Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ 1980 viết:
“Năm thứ nhất đời Nguyên tiến hành đo đạc thiên văn 27 nơi trong nước, nhà Nguyên năm thứ 16 (Công nguyên năm 1279) Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đích thân sai Đồng Trí Thái, Sử viện sử Quách Thụ Kinh, nhà thiên văn nổi tiếng đến biển Nam tiến hành đo đạc. Theo Nguyên Sử, điểm thiên văn Nam Hải nằm ở phía Nam Châu Nhai (thuộc đảo Hải Nam) và kết quả đo đạc cho thấy Nam Hải ở vĩ tuyến Bắc 15 độ. Điểm thiên văn Nam Hải chính là ở quần đảo Tây Sa ngày nay. Điều đó nói rõ quần đảo Tây Sa thời Nguyên đã là nằm trong biên thùy TQ”.
Thực ra, Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn được ghi chép như sau:
“Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi. Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”.
Khái niệm “bốn biển”, theo ngôn từ TQ, chỉ rằng các lãnh thổ này nằm ngoài lãnh thổ quốc gia. Trên thực tế, dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên 27 nơi đo đạc thiên văn trong đó có những địa danh hoàn toàn không thuộc cương vực TQ như Cao Ly (Triều Tiên), Thiết Lặc (Siberia). Chính Nguyên Sử cũng nói rõ “lãnh thổ TQ” dưới thời Nguyên phía Nam chỉ tới đảo Hải Nam, phía Bắc không quá sa mạc Gobi.
Các quan trắc thiên văn trên có phần tiến hành trên lãnh thổ TQ, có phần nằm ngoài cương vực TQ. Do đó, nó không thể tạo ra bằng chứng xác đáng cho chủ quyền TQ. Ngay cả khi điểm quan sát thiên văn “Nam Hải” nằm trên các đảo Tây Sa, thì việc quan sát thiên văn đó… cũng không đủ để thể hiện ý chí của “Chính phủ đó thực hiện chủ quyền trên các đảo đá nhỏ này”. Hơn nữa một hành động nghiên cứu khoa học không thể tạo nên một danh nghĩa chủ quyền.
[1] Bất Lao Sơn: Cù Lao Chàm; Hoàn Châu: Nước Chămpa

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 6: Những luận cứ chủ quyền không vững chắc

- Sự kiện  thứ ba: Ngô Thăng, phó tướng thủy sư Quảng Đông đã thực hiện việc  tuần biển vào khoảng các năm 49 và 51 đời nhà Thanh (1710 - 1712). “Tự Quỳnh Thôi, lịch Đồng Cổ, kinh Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, Châu Tào tam  thiên  lý, Cung  tự tuần thị (từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, qua Thất Châu Dương, Tứ Canh  Sa,  vòng  quanh  ba  ngàn  dặm,  đích thân đi tuần tra xem xét). Gọi Thất Châu Dương ở đây tức quần đảo Tây Sa ngày nay, lúc bấy giờ do hải quân Quảng Đông phụ trách đi tuần”.

Việc nghiên cứu nghiêm túc lại cho ta một sự  thật khác hẳn. Những địa danh nêu trong đoạn trích trên đều nằm xung quanh  đảo Hải Nam,  theo  các  tác  giả VN ([1]) :
-  Quỳnh Nhai, tức “Đạo binh bị Quỳnh  Nhai” (Đảo Hải Nam) đời Thanh, sở tại Quỳnh Sơn gần thị trấn Hải Khấu ngày nay, phía bắc đảo Hải Nam.
- Đồng Cổ ở mỏm đông bắc đảo Hải Nam
- Thất Châu Dương  là vùng biển có bảy hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía đông đảo Hải Nam.
- Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía tây đảo Hải Nam.
Các địa danh  trên đều được  tìm  thấy trên các hải đồ TQ. Trong hải đồ N 5012 tỷ lệ 1/500.000 do hải quân TQ  xuất bản bằng tiếng TQ  và  tiếng VN  tháng  5.1956  có  tiêu đề: “Vùng  phụ  cận  Lôi Châu  và  đảo Hải Nam”,  và các bản đồ “Bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam”, và Nam Hải địa  hình  đo, tỷ  lệ  1/300.000.000 do  Nhà xuất  bản  địa  đồ TQ  xuất  bản  tháng  5.1984,  có  nhóm  đảo có tên Thất Châu Đảo và vùng biển  xung  quanh các đảo nhỏ đó ở phía đông nam của  đảo  Hải  Nam  được  gọi  tên  đúng  là Thất  Châu Dương. Rõ ràng tên này không được dùng để chỉ toàn bộ biển phía Nam Trung Hoa. Ngoài  ra, trong cuốn Quảng  Đông  dư  địa  đồ thuyết in năm  1909, Lý Hàn  Chung đã nói về các cuộc tuần biển của hải quân Quảng Đông như sau:
“Biên giới  trên biển ngày nay  lấy phía Nam đảo Hải  Nam  làm  giới  hạn,  bên  ngoài  là  Thất  Châu Dương, Đô  đốc  thuỷ  quân Quảng Đông  đi  tuần  đến đó là quay về”.
Ở  đây một  lần  nữa,  chúng  ta  không  thấy  bất  kỳ một ghi chép chính xác nào về các đảo Paracel dưới tên gọi Tây Sa.
Hơn  nữa,  các  hành  vi  quản  lý  mà  TQ viện dẫn, nếu đúng, chỉ  liên quan tới các đảo Tây Sa mà  không  nhắc  gì  đến  các  đảo  Nam  Sa.  Đối  với Spratly, TQ chỉ nêu ra được  sự kiện  năm 1883  khi  tàu  nghiên  cứu  của  Đức  tiến  hành các nghiên cứu  khoa  học  tại  quần  đảo  Nam  Sa,  chính quyền Quảng Đông đã phản  đối  (theo  Heinzig,  sự kiện này  liên quan Tây Sa hơn là tới Nam Sa). Việc phía TQ thiếu một  danh  nghĩa  chiếm hữu của Nhà nước được xác lập một cách vững chắc và từ lâu đời làm cho việc phản đối ngoại giao dựa trên cơ sở quyền thụ  đắc  theo  thời  hiệu  để  ngăn chặn một hành động như vậy không  còn  giá  trị. Đúng  hơn  nó chỉ được coi như một  tham vọng chủ quyền mà thôi.
Để chứng minh cho lập  luận của họ, các tác giả TQ  viện dẫn  tới  cả  các  chuyến đi  của Thái giám  Trịnh  Hòa  trong  thời  gian  từ  1405  đến  1433 qua các đảo này. Tuy nhiên các chuyến đi này không được Sách trắng của Bộ Ngoại giao TQ nhắc đến. Các chuyến đi của Trịnh Hòa tới Java, Ấn Độ và bờ biển Phi châu chỉ có giá trị tạo uy danh cho triều Minh ([2]) và Trịnh Hòa cũng không đưa ra một yêu sách  tạo lập danh nghĩa chiếm hữu  các đảo nào thay mặt thiên triều TQ. ([3])  
Các thí dụ kể trên chỉ  tạo  ra sự nhận biết về các đảo, đúng hơn là một số đảo. Nếu các đảo trong biển Đông được các thủy thủ và ngư dân TQ biết tới là điều không phải bàn cãi thì việc khẳng định chủ quyền  TQ trên  các  quần  đảo  này  thật  khó thuyết  phục.  Trong  các  sách  và  văn  kiện do TQ trích dẫn, không có một ghi chép nào về quyền phát hiện hoặc sự củng cố một danh nghĩa chiếm hữu các  đảo  này, và về  thực chất không  thể hiện ý định thực  thi chủ quyền tại đó của họ.
Các  sự kiện kể  trên diễn  ra với khoảng thời gian cách quãng  200-500  năm. Điều  đó  rõ  ràng  làm yếu thêm lập luận của TQ, theo đó các Hoàng đế Trung Hoa đã quản  lý các đảo này  từ hai nghìn năm nay một cách liên tục và không ngắt quãng.
Để chứng minh chủ quyền, cần phải cung cấp các bằng  chứng  liên  quan  trực  tiếp  tới  việc  chiếm  hữu. D.L Bennett, luật gia Mỹ, nhận xét:
“Nếu các đảo hoặc không được quản lý bởi một chính phủ hoặc không được thăm viếng bởi các nhân viên nhà nước, vấn đề đặt ra  là liệu những cuộc tiếp xúc riêng rẽ bởi các ngư dân tư nhân TQ có đủ  để  thiết  lập  chủ  quyền trên  Spratly  theo  luật quốc  tế  không. Vì  vậy  giá  trị  của  lập  trường  chính thức của TQ là đáng nghi ngại”. ([4])
[1] Vũ Phi Hoàng, Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lãnh thổ Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 88;  Nguyễn Quang Ngọc, Sđd.
[2] BBC, ngày 27 tháng 11 năm 2008
[3] Năm 2005 Trung Quốc tuyên  truyền nhiều về Trịnh Hòa, tổ chức thi  "Nhịp cầu Hán ngữ" kỷ niệm các chuyến đi  của ông, gọi ông  là nhà hàng hải  vĩ  đại ngang  tầm Colombo  nhằm mục đích  gắn chuyến  đi  của Trịnh Hòa với quyền phát hiện. 
[4] D.L Benne, “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và việc sử dụng luật pháp quốc  tế  trong  vụ  tranh  chấp  các  đảo  Spratleys”,  Stanford  Journal  of International Law, quyển 28 (1991-1992), tr. 435.

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 7: Tư liệu phía Việt Nam

Các tác phẩm và các văn kiện chứng minh quyền phát hiện và chủ quyền  của VN trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có niên đại chỉ từ thế kỷ XV, các văn kiện trước đó có  lẽ bị tiêu hủy và thất lạc dưới thời Bắc thuộc và các cuộc chiến tranh liên miên. 

Tác phẩm cũ nhất có nói về sự tồn tại của các đảo là Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630  - 1653) do Đỗ Bá, tự Công Đạo soạn. Tài liệu này bao gồm các bản đồ An Nam từ thế kỷ XV trong đó có tấm vẽ các quần đảo Paracels và Spratlys trong biển Đông dưới tên gọi Bãi Cát Vàng và Trường Sa, thuộc phủ Quảng Ngãi:

“Giữa  biển  có  một  dải  cát  dài,  gọi  là  Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vĩnh. Một lần có gió Tây Nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy, có gió Đông Bắc thì thương thuyền  chạy  ở  ngoài  cũng  trôi  dạt  ở  đấy,  đều  cùng chết đói cả, hàng hóa thì đều để ở nơi đó”.
Trong Phủ biên  tạp  lục (1776), Lê Quý Đôn, Hiệp trấn Thuận Hóa viết:
“Phủ  Quảng  Ngãi,  huyện  Bình  Sơn, có  xã  An Vĩnh, ở  gần  biển, ngoài  biển  về  phía Đông Bắc, có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn một trăm ba mươi ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn ba mươi dặm, bằng  phẳng,  rộng  lớn, nước trong suốt đáy”.
Đại  Nam  thực  lục  tiền  biên,  phần  về  các  chúa Nguyễn  (1600  -  1775),  quyển X ghi nhận địa danh Hoàng Sa và Trường Sa và các hoạt động quản lý của các chính quyền VN:
“Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở ngoài  biển, có  hơn  một  trăm ba  mươi  bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường hoặc vài  trống  canh, kéo dài  không  biết  mấy  ngàn dặm, tục gọi  là Vạn Lý Hoàng Sa, trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích… Hồi  đầu  dựng  nước,  đặt  đội  Hoàng  Sa  gồm  70 người,  lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, độ ba ngày đêm thì đến, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ dân ở phường Tư Chính, ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn, thu  lượm hóa vật. Đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản”.([1])
Các  tác phẩm chính thức khác do Quốc Sử quán biên soạn và in dưới thời nhà Nguyễn như Đại Nam thực lục chính biên (1848), Khâm định Đại Nam hội diễn sử lệ (1843 - 1851), Đại Nam nhất thống chí (1865  -  1882), Lịch  triều  hiến chương  loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược (1876) đều chép tương tự về Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ quyển 165 còn khẳng định sự đánh giá của Bộ Công  tâu  lên Vua  năm  Bính  Thân,  niên  hiệu Minh Mạng  thứ 17  (1836,  tức năm Đạo Quang  thứ 16 đời Thanh): “Xứ  Hoàng  Sa  thuộc  cương  vực  mặt  biển nước ta rất là hiểm yếu”. Đại Nam nhất thống chí, bộ sách địa lý lịch sử chung  thống nhất của Đại Nam, phần Hình thể nói về tỉnh Quảng Ngãi “phía đông có đảo Hoàng Sa liền với biển xanh làm hào che…”. Đó đều là các nguồn chính thức và có giá trị chân thực.
Viện Hán Nôm Hà Nội còn lưu trữ hàng chục châu bản  triều Nguyễn gồm các bản  tấu, phúc tấu của các Bộ Công, Bộ Hộ, các cơ quan khác, các dụ của các vua về các hoạt động thực thi chủ quyền của VN trên quần đảo.
Một số bản đồ VN vẽ các đảo này như bộ phận của lãnh  thổ VN, nhất  là Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838). Ngoài ra các sách địa lý lịch sử như Sử  học bị khảo của Đặng Xuân Bảng, Địa dư toát  yếu (niên  hiệu Duy Tân 1907-1916), Quảng Thuận đạo sử tập, Trung kỳ địa dư lược, Quảng Ngãi tỉnh chí đều có những đoạn văn và bản đồ xác nhận Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi. Trong gia phả của các họ Phạm, họ Đặng trên đảo Lý Sơn còn lưu giữ các sắc chỉ của vua Minh Mạng giao cho dòng họ chọn những  thanh niên khỏe mạnh và giỏi bơi lội để gia nhập đội Hoàng Sa... ([2])
[1] Đại Nam thực lục tiền biên, NXB Sử học, Hà Nội, 1962, t.1, tr.22
[2] “Phát  hiện  tài  liệu  quý  liên  quan  đến  quần  đảo Hoàng  Sa”,  Lao Động số 71 ngày 1.4.2009.

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 8: Đi đến luận cứ chắc chắn

Trên cơ sở các ghi chép và bản đồ cổ của VN, có những nhận xét sau:

1. Ngay từ thời chúa Nguyễn, người VN đã có hiểu biết khá tường tận về sự hiện diện của các đảo này. Mô tả các đảo chi tiết hơn, chính xác hơn sự mô tả của phía TQ.
2. Các dấu hiệu của việc phát hiện và sự khẳng định chiếm hữu trên các đảo đã được ghi nhận với quyết định của các chúa Nguyễn cử đội thuyền tới đó hằng năm trong nhiều tháng.
Vấn đề đặt ra là các hoạt động mang tính nhà nước này đã diễn ra chính xác tại đâu? Đối với người VN đây là các hành động nhằm khẳng định danh nghĩa chiếm hữu trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngược lại phía TQ lại cho rằng: quần đảo Hoàng Sa mà VN nói hoàn toàn không phải là quần đảo Tây Sa của TQ mà chỉ có thể là những đảo và cồn cát ở ven biển miền Trung VN” ([1]) với hai lập luận.
Thứ nhất, Hồng Đức Bản Đồ ghi rằng từ bờ biển VN tới Hoàng Sa phải mất một ngày rưỡi; thế nhưng với kỹ thuật hàng hải lúc đó, “đi thuyền buồm nửa ngày hoặc một ngày rưỡi thì hoàn toàn không thể đến”. Thứ hai, Phủ biên tạp lục ghi Hoàng Sa gồm hơn một trăm ba mươi núi, trong khi Tây Sa “địa thế thấp, bằng phẳng” và chỉ có “ba mươi nhăm đảo, đá ngầm và bãi cát”; và cũng theo Phủ biên tạp lục “Bãi Cát Vàng ước chừng ba mươi dặm, trong khi chiều dài của đảo Vĩnh Hưng, đảo lớn nhất trong quần đảo Tây Sa của TQ cũng không tới 2 km, diện tích cũng chỉ có 1,85 km2”. ([2])
Phía VN đáp trả rằng trên tất cả các bản đồ cổ đều phân biệt rõ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với các đảo ven bờ VN. Người TQ cố tình không tham khảo các sách sử chính thức của VN như Đại Nam nhất thống chí (1865 - 1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Việt sử cương giám khảo lược (1876) đều nói tới khoảng cách từ 3 đến 4 ngày đi biển.
Trong Đại Nam nhất thống chí (1882), có đoạn viết:
“Đảo Hoàng Sa ở phía đông Cù Lao Ré, huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ ra khơi thuận gió, ba bốn ngày đêm có thể đến. Ở đó có đến hơn một trăm ba mươi đảo nhỏ, cách nhau khoảng một ngày đường hoặc vài trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm tục gọi là Vạn Lý Trường Sa”.
Bản đồ biển Đông do Nhà xuất bản Luân Đôn in năm 1791 - A new chart of the China Sea with its several entrances, printed for Robert Sayer, London năm 1791. Bản đồ này có điểm khác biệt là thể hiện quần đảo Paracels nằm trong hình cờ đuôi nheo ghi rõ according to the Draft of Cochinchina Pilot 1764 (vẽ theo dự thảo Hàng hải chỉ nam của xứ An Nam năm 1764). Tài liệu này chứng tỏ trong khi xây dựng các tài liệu hướng dẫn hàng hải, các nhà hàng hải phương Tây đã tham khảo các hiểu biết của chính quyền An Nam và đã thừa nhận quần đảo này thuộc An Nam.

Lúc đầu, người VN khi phát hiện ra Hoàng Sa chỉ biết đó là một vùng có rất nhiều đảo, đá, bãi ngầm trải dài mấy ngàn dặm mà không phân biệt được đó là hai quần đảo riêng biệt. Họ gộp chung hai quần đảo dưới cùng một tên gọi Đại Trường Sa - Hoàng Sa - Vạn Lý Trường Sa. Sau này, dưới triều Nguyễn, để chính xác hơn, mỗi quần đảo có một tên gọi riêng: Paracels được giữ tên Hoàng Sa còn Spratlys là Vạn Lý Trường Sa, và sau gọi ngắn gọn là Trường Sa ([3]).
Trong tấm bản đồ Đại Nam nhất thống toàn đồ (1838) mỗi quần đảo đều có tên riêng: Vạn Lý Trường Sa và Hoàng Sa. Tuy nhiên, chúng vẫn còn được coi là một; trên bản đồ, cả hai quần đảo đều được khoanh lại trong một vòng tròn vẽ đứt đoạn. Về mặt quản lý hành chính, Hoàng Sa là đội kiêm quản đội Bắc Hải, có nhiệm vụ khai thác các đảo ở phía nam và trong khu vực Côn Đảo. Địa danh và khu vực hoạt động của đội Bắc Hải phù hợp với khu vực Trường Sa. Ngày nay, số các đảo, đá, bãi nổi của cả hai quần đảo hợp lại đều cho con số khoảng một trăm ba mươi tùy theo cách tính.
[1] Sách trắng Bộ Ngoại giao Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1980, tr.11. Hàn Chấn Hoa, “Các đảo Paracels nói trong các sách phương Tây không phải là quần đảo Tây Sa của nước ta”, Quang Minh nhật báo, Bắc Kinh, ngày 5 tháng 4 năm 1980.
[2] Hàn Chấn Hoa. Sđd.
[5] Lãng Hồ, “Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”, Tập đặc san Sử Địa, số 29, Sài Gòn, 1975, tr.73

Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 9: Tư liệu khách quan thừa nhận chủ quyền Việt Nam

Để giải quyết cuộc tranh luận dai dẳng xung quanh danh nghĩa lịch sử, cách tốt nhất là nên tham khảo ý kiến bên thứ ba.

Người phương Tây đã từng nói về sự quy thuộc của quần đảo Paracel vào An Nam. Các nhà truyền đạo Pháp trên tàu Amphitrite trên đường sang TQ đã ghi trong một bài tiếng Pháp năm 1701: “Paracel là một quần đảo thuộc Vương quốc An Nam. Đó là một bãi đá ngầm khủng khiếp có đến hàng trăm dặm, rất nhiều lần đã xảy ra các tai nạn đắm tàu ở đó” ([1]).
Jean-Louis Taberd ghi nhận:
“Pracel hoặc Paracels (Bãi cát vàng), mặc dù quần đảo này không có gì ngoài các đá, bãi và độ sâu lớn hứa hẹn nhiều bất tiện lợi hơn, Vua Gia Long đã nghĩ tới việc mở rộng lãnh thổ của ngài bằng cách chiếm thêm vùng đất buồn bã này. Năm 1816, ngài đã tới đây long trọng cắm cờ, chính thức chiếm hữu các đảo đá này, mà không một ai tranh giành gì với ngài cả”([2]).
Về phần mình, J.B.Chaigneau, cố vấn của nhà vua An Nam, đã viết trong cuốn hồi ký về nước Cochinchine:
“Nước Cochinchine mà nhà vua bấy giờ đã lên ngôi Hoàng đế gồm xứ Cochinchine và xứ Đông Kinh… một vài đảo có dân cư không xa biển và quần đảo
Paracel do những đảo nhỏ, ghềnh và đá không có dân cư hợp thành. Chỉ tới năm 1816, Hoàng đế mới chiếm hữu quần đảo này”([3]).
Dubois de Jancigny trong Thế giới, lịch sử và mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Ceylan có viết: “Chúng tôi quan sát thấy rằng từ ba mươi tư năm nay, quần đảo Paracel (người An Nam gọi là Cát vàng), một ma hồn trận thật sự của các đảo nhỏ, các đá và các bãi cát đầy ngờ vực của các nhà hàng hải và có thể được coi là hoang dã và vô tích sự nhất trong số các điểm của quả địa cầu, đã được người An Nam (Cochinchine) chiếm hữu. Chúng tôi không để ý liệu họ có tạo nên một công trình nào trên đó không (nhằm mục đích, có thể, bảo vệ nghề cá); nhưng chắc chắn rằng Vua Gia Long đã gắn thêm vòng hoa này vào vương miện của người, bởi vì ngài đã thân chinh tới đó chiếm hữu, việc này xảy ra vào năm 1816 khi ngài long trọng kéo cờ của An Nam lên đó”([4]).
Gutzlaff trong bài Địa lý Vương quốc Cochinchine xuất bản năm 1849 tại London (Anh) cũng ghi Cát Vàng (để chỉ Paracel) thuộc Cochinchine. Gutzlaff viết:
“Không biết vì san hô hay vì lẽ khác mà các ghềnh đá ấy lớn dần, nhưng rõ ràng nhận thấy các đảo nhỏ ấy càng năm càng cao, và một vài cái bây giờ đã có người ở thường xuyên, thế mà chỉ mấy năm trước sóng đã vỗ dập qua. Những đảo ấy đáng lẽ không giá trị nếu nghề chài ở đó không phồn thịnh và không biết bù hết mọi nguy nan cho kẻ phiêu lưu. Từ lâu đời, những thuyền phần lớn từ đảo Hải Nam tới, đã hằng năm đến thăm các bãi nổi này và tiến hành cuộc viễn du xa xa tới tận bờ đảo Borneo. Tuy rằng hằng năm hơn phần mười bị đắm, nhưng cá đánh được rất nhiều, đến nỗi không những bù hết được mọi thiệt thòi, mà còn để lại món lợi rất to. Chính phủ An Nam thấy những lợi có thể mang lại nếu một ngạch thuế được đặt ra, bèn lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ ở chỗ này để thu thuế mà mọi người ngoài tới đây đều phải trả, và để bảo trợ người đánh cá bản quốc” ([5]).
Trong Địa lý tóm tắt của Ý (Compendio di Geografia) do Adriano Balbi soạn năm 1850, trang 641 mô tả về địa lý Vương quốc An Nam có ghi: Cũng thuộc vương quốc này còn có quần đảo Paracel, nhóm đảo Pirati và nhóm đảo Poulo Condor (tức Hoàng Sa, nhóm đảo Hải Tặc và Côn Đảo). Cũng trong tác phẩm này tr.644-648 về địa lý Trung Hoa không viết gì về Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngay cả các sách TQ cũng công nhận việc quy thuộc các đảo này vào An Nam. Chúng ta có thể đọc được điều đó trong phần tựa cuốn Hải Lục năm 1842 trong đó Vương Bính Nam đã so sánh các điều mắt thấy tai nghe do Tạ Thanh Cao, một thủy thủ TQ từng đi nhiều nước nhiều vùng về kể lại:
“Vạn lý Trường Sa là đất nổi giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên giậu của An Nam”.
Hải ngoại ký sự của Thích Đại Sán (người TQ) năm 1696 ([6]) quyển III đoạn thuật lại chuyến đi về Quảng Đông bắt đầu đi từ Quảng Nam viết: “…bãi cát rộng cả trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể, gọi là "Vạn lý Trường Sa", mù tít chẳng thấy cỏ cây nhà cửa; nếu thuyền bị trái gió trái nước tấp vào dầu không tan nát cũng không gạo, không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt bảy ngày đường, chừng bảy trăm dặm ([7]). Các quốc vương thời trước, hằng năm sai thuyền đi đánh cá đi dọc theo bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các tàu thuyền hư hỏng dạt vào". Đoạn văn mô tả này đã xác nhận việc hành xử chủ quyền của thời Chúa Nguyễn qua hoạt động thu lượm hóa vật của Đội Hoàng Sa.
Các mô tả về Paracel từ các nguồn nước ngoài chứng tỏ Hoàng Sa không phải là các đảo ven bờ biển Trung VN. Trong khi có khá nhiều nguồn tài liệu trung gian chứng minh sự chiếm hữu Paracels của các Chúa và Vua Nguyễn, không có một nguồn tư liệu nước ngoài nào chỉ rõ sự chiếm hữu các đảo này của TQ.
[1] Trích dẫn theo P.B Lafont, Sđd, tr.248.
[2] J.L Taberd, Ghi chép về địa lý Nam Kỳ trong the Journal of Bengal, Calcutta, serie VI, September 1837, tr.737 - 745.
[3] Tập san của người bạn cũ của Huế, số 2,1923, tr.257.
[4] M.A Dubois de Jancigny, Thế giới, lịch sử và mô tả các dân tộc Nhật, Đông Dương, Xeylan, Paris éd, Firmin Didot Freres, 1850, tr. 555.
[5] Journal of the Geographical Society of London (Tạp chí Hội Địa lý London), quyển 19 (1849), London, John Murray, 1849, tr. 93-94.
[6] Hải ngoại ký sự là ghi chép chuyến đi của tác giả Đại Sán Hán Ông, tên là Thạch Liêm từ chùa Trường Thọ tỉnh Quảng Đông đến vùng Thuận Quảng nước Đại Việt vào năm Ất Hợi triều Vua Khang Hy (1695) và trở về Trung Quốc vào năm sau (1696). Sách nguyên bản chữ Hán gồm 6 quyển đã được Viện Đại học Huế dịch trọn bộ ra Quốc ngữ năm 1963. Sau này người TQ đã dựng nên một chiến dịch nói xấu tác giả, chứng minh ông là người không bình thường, là kẻ điên để giảm bớt tính chân thực của tác phẩm. Nguyễn Quang Ngọc, Sđd, tr. 43.
[7] Phạm Hoàng Quân cho rằng ở đây có lỗi dịch Hán-Nôm, thất canh lộ không phải là 7 ngày đêm, canh ở đây là đơn vị chiều dài. Tuy nhiên ông cũng công nhận một canh khoảng trăm dặm. Như vậy về khoảng cách Hải ngoại ký sự mô tả khá chính xác khoảng cách từ bờ đến quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cách dịch đúng được đề xuất là: “Quãng ấy cách Đại Việt bảy canh đường, chừng bảy trăm dặm”.

 Luật quốc tế và chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa - Kỳ 10: Ý chí khẳng định chủ quyền Việt Nam

Các bằng chứng do VN đưa ra cho thấy các hoạt động do các chúa và các vua nhà Nguyễn trên Hoàng Sa và Trường Sa thường tiến hành trên năm lĩnh vực sau:
1. Tổ chức khai thác có hệ thống các đảo.
2. Tổ chức công tác khảo sát đo đạc nhằm hiểu biết rõ lãnh thổ và đồng thời để kiểm tra, kiểm soát biển.
3. Xây dựng các miếu, đền, trồng cây như các dấu hiệu tượng trưng chủ quyền An Nam trên các đảo.
4. Tổ chức thu thuế tại chỗ.
5. Cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn.
Về việc tổ chức các đội  Hoàng Sa và Bắc Hải nhằm khai thác các tài nguyên sản vật trên biển, Phủ biên tạp lục (1776) có ghi:
“Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương ăn đủ sáu tháng, đi bằng chiếc thuyền tiểu câu ra biển ba ngày ba đêm thì đến các đảo ấy rồi ở  lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa,  hoa  bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột cốc hoa, rất nhiều.
Đến kỳ tháng tám thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về… Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn Tu Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hóa vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản”([1]).
Với việc dựng các đội thủy quân đặc biệt để khai thác các đảo, các chúa và vua nhà Nguyễn đã tỏ rõ ý chí nhà nước. Hoạt động này được tiến hành hằng năm và được đặt dưới kỷ luật nhà nước. Các đội viên có quyền được cấp giấy sai đi, được miễn thuế sưu, tiền đò và được thưởng tiền. Ngược lại, ai không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị trừng phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của lỗi. Các chuyến đi và tuần tra các đảo được tổ chức thường xuyên. Mỗi khi hoàn cảnh đòi hỏi phải tạm hoãn, đều phải có chỉ dụ của nhà vua.
Ngay cả dưới thời Tây  Sơn, triều đại ngắn ngủi, gián đoạn thời nhà Nguyễn, truyền thống đó vẫn được duy trì không ngắt đoạn.
Sách Đại Nam thực lục chính biên (1848) ghi nhận một loạt các hành động của vua Nguyễn để củng cố chính quyền của họ trên các đảo. Năm 1815, 1816, 1833, 1834, 1835, 1836, vua Gia Long và người kế nhiệm ông - vua Minh Mạng đều ra chiếu chỉ lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa tới các đảo Hoàng Sa để ghi lại lộ trình. Quyển 165 viết:
“Năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836)... Bộ Công tâu: Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực mặt biển nước ta, rất là hiểm yếu, từng sai vẽ bản đồ  nhưng vì tình thế xa rộng, nên mới chỉ vẽ được một nơi, lại cũng chưa biết nên làm thế nào. Hằng năm thường phái người đi xem xét cho khắp để thông thuộc đường biển. Xem từ năm nay về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, phái thủy quân, biền binh và giám thành đáp một chiếc thuyền ô nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Nghĩa (Ngãi - TN), giao cho hai tỉnh Quảng Bình, Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra xứ Hoàng Sa.
Không cứ là đảo nào, bãi nào, phàm khi thuyền đến nơi, tức là chiếu chỗ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi Việt Nam và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi  ngầm, đá  ngầm  hay  không, hình thế hiểm trở bình dị thế nào, phải xem xét, đo đạc kỹ càng, vẽ thành bản đồ. Lại chiếu ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến nơi  ấy, căn cứ vào thủy trình đã qua, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông ra bờ biển, đối thẳng vào tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, ước lượng cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm, đều nhất nhất phải nói rõ, lần lượt đem về dâng trình.
Vua y lời tâu, sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi chuẩn bị mang theo 10 cái bàn gỗ, đến nơi dựng lên làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dài 1 tấc, mặt bài khắc chữ: “Năm Minh Mạng thứ 17, Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật vâng lệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”.
[1] Trích từ Sách trắng của Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam năm 1981, tr 9 - 11.
TS Nguyễn Hồng Thao

Không có nhận xét nào: