BIỂN,
ĐẢO VIỆT NAM TRONG CÁC TƯ LIỆU TIẾNG ANH THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
Dương Hà Hiếu
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 (469), 2015
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 (469), 2015
Thế kỷ XVI – XVII, cùng
với những phát kiến địa lý vĩ đại bằng đường biển, người châu Âu đã biết đến những
“tân thế giới” ngoài châu Âu. Từ đó,những tuyến giao thông buôn bán đường biển
hình thành và ngày càng trở nên trọng yếu nối liền châu Âu, châu Mỹ với châu Á
và châu Đại Dương đồng thời thúc đẩy cho quá trình thăm dò, khám phá và chinh
phục những vùng đất này ngay các thế kỷ sau đó. Hàng loạt thông tin ghi chép về
các vùng đất mới trong đó có Việt Nam được in ấn và phổ biến bằng nhiều thứ tiếng.
Mặc dù vậy, những tư liệu đề cập đến Việt Nam nói chung và vùng biển, đảo của
Việt Nam nói riêng xuất bản bằng tiếng Anh so với các tư liệu bằng tiếng Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp thì khá muộn nhưng lại mang có tầm quan trọng và tính
phổ quát cao. Trong khuôn khổ bài viết này, với những tưu liệu gốc có trong
tay, chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu những thông tin cung cấp về biển, đảo Việt
Nam bằng tiếng Anh trong các tư liệu xuất bản ở thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ
XIX mà chúng tôi tiếp cận được.
1. Vài nét về nguồn tư liệu
Ở thế kỷ XVIII, nhìn tổng
thể, những công trình đề cập đến biển, đảo Việt Nam bằng tiếng Anh mặc dù xuất
bản chưa nhiều nhưng những thông tin mà chúng cung cấp lại có vị trí khá quan
trọng trong việc phổ biến kiến thức đồng thời là bằng cứ khẳng định chủ quyền của
Việt Nam đối với hệ thống các đảo, quần đảo mà người Việt Nam làm chủ từ trước
đến nay. Đầu tiên phải kể đến cuốn “A new
account of the East Indies, being the observation and remarks, vol II” của
Alexander Hamilton xuất bản năm 1727 tại Scotland gồm có 320 trang, hiện lưu trữ
tại thư viện The New York Public (USA). Tiếp theo là công trình “The History of China. Upon the Plan of Mr
Rollin’s Ancient History (translated from the French)” in ấn năm 1755 gồm
382 trang, hiện lưu giữ tại thư viện Đại học Princeton (USA). Cuốn “The
Modern part of an Universal history from the earliest account of time. Vol VII”
in vào năm 1759 tại London gồm 578 trang. Công trình tiếp theo phải kể đến là “An Historical account of the embssy to the
emperor of China” gồm 475 trang hiện lưu tại thư viện Đại học Oxford và “An Abridged account of the embssy to the
emperor of China” gồm 388 trang hiện lưu tại thư viện Đại học Princeton của
hai tác giả Macartney và George xuất bản năm 1797.
Bước sang thế kỷ XIX,
các tư liệu tiếng Anh đề cập đến biển đảo của Việt Nam ngày càng xuất hiện nhiều
hơn. Đầu tiên phải kể đến đó là công trình “The
view of the India extra Gangem, China and Japan, Vol III” của tác giả
Thomas Pennant xuất bản năm 1800 tại London gồm 284 trang, hiện được lưu giữ tại
thư viện của Đại học Harvard. Tiếp theo là cuốn “Modern Geography: A Description of the empires, kingdoms, stares, and
colonies with the oceans, seas, and Isles in all parts of the world: including
the most recent discoveries, and political, alterations, digested on a new
plan, Vol II” của hai tác giả John Pinkerton và S. Vince xuất bản năm 1804
tại London và New York gồm 698 trang, hiện lưu giữ tại thư viện Đại học
California. Công trình này sau đó được chỉnh sửa và tái bản tại London vào năm
1806 gồm 676 trang. Kế đến là “A Voyage
to Cochin China in the years 1792 and 1793: Containing a general view of the
valuable productions and the political importance of this flourishing kingdom,
and also of such european settlements as were visited on the voyage” của
tác giả John Barrow xuất bản năm 1806 gồm 447 trang tại London, hiện lưu tại
thư viện Đại học Darlington. Công trình “The
Literary panorama: A review of books, A register of events, A magazine of
varieties comprising interesting intelligence from various districts of the
United Kingdom; The British connections in The East Indies, The West Indies,
America, Africa, western Asia & c. and from the Continent of Europe, Vol I”
gồm 1418 trang in tại London năm 1807 của tác giả C. Taylor hiện lưu giữ tại
thư viện Đại học New York. Công trình “EncyclopaediaLondinensis
or Universal Dictionary of Arts, Sciences and Literature, Vol IV” được xuất
bản tại London năm 1810 gồm 910 trang, hiện lưu tại thư viện Đại học Minnesota.
Năm 1813, tác giả James Playfair cho xuất bản cuốn sách “A System of Geography, Ancient and Modern, Vol V” tại London gồm
827 trang. Kế đến là công trình “A System
of Geography for the use of school on an entirely new plan” của tác giả
Thomas Keith in vào năm 1826 tại London gồm 372 trang. Đến năm 1832, tác giả
David Brewster cho xuất bản công trình “The
Edinburgh Encyclopaedia: Science and the Arts, in eighteen volumes, Vol VI”
tại Philadelphia (USA) gồm 797 trang. Công trình này hiện nay được lưu giữ tại
thư viện Đại học Stanford (California, USA). Tiếp theo là công trình “A System of Universal Geography, or a
description of all the parts of the World, on a new plan according to the great
natural, divisions of the globe, accompanied with analytical, synoptical and
elementary tables, Vol I” của hai tác giả M. MalteBrun và James G. Percival
xuất bản năm 1834 tại Boston, hiện được lưu giữ tại thư viện Đại học Michigan
(USA) gồm 640 trang. Năm 1836, tác giả James Horsburgh công
bố công trình“India Dirctory, or Directions for sailing to and from the
East Indies, China, Australia, Cape of Good Hope, Brazil and the Interjacent
ports, Volume Second” xuất bản tại London
gồm 740 trang, hiện lưu tại thư viện Đại học Minnesota. Năm 1842, công trình “The Encyclopaedia Britannica, or Dictionary of Arts, Sciences, and
miscellaneous literature, Seventh
edition, Volume VII, part I” của tác giả Napier được xuất bản tại
Edinburgh (Scotland), London (England) và ở Dublin (Ireland) gồm 392 trang. Đến
năm 1845, ba tác giả Edward Smedley, Hugh James Rose và Henry John Rose cũng
cho xuất bản công trình “EncyclopaediaMetropolitana
or Universal Dictionary of Knowledge, Volume XVI” tại London gồm 804 trang
và hiện nay được lưu giữ tại thư viện Đại học Michigan (USA). Tiếp theo là công
trình “The Encyclopaedia Britannica a
Dictionary of Arts, Sciences, and General Literature, Eighth edition, Vol VII”
in ấn năm 1854 tại Scotland gồm 800 trang. Năm 1856, Hiệp hội Địa lý hoàng gia
Anh cho xuất bản công trình “Gazetteer of
The World, or Dictionary of Geographical Knowledge, compiled from the most
recent authorities, Vol V” gồm 874 trang tại London. Công trình uy tín này
hiện nay được lưu giữ tại thư viện Đại học Oxford. Và cuối cùng phải kể đến
công trình “Geography or First Division
of “The English Encyclopedia”, Volume II” của Charles Knight gồm 1148 trang
được xuất bản tại London vào năm 1866. Công trình đồ sộ này hiện nay được lưu
giữ và bảo quản ở thư viện The New York Public tại New York.
2.
Nội dung
2.1 Về bờ biển và vị
trí của các đảo ven bờ Việt Nam
Trong lịch sử Việt Nam,
thế kỷ XVII – XVIII là giai đoạn diễn ra nhiều biến cố thay đổi lớn, đó là: sự
phân chia Đàng Trong (chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (vua Lê – chúa Trịnh); phong
trào nông dân Tây Sơn ở nửa cuối thế kỷ XVIII lật đổ các tập đoàn phong kiến,
thống nhất đất nước; các triều đại Tây Sơn bị lật đổ và sự cai trị của vương
triều Nguyễn ở đầu thế kỷ XIX. Những biến động dồn dập làm thay đổi bộ mặt
chính trị của đất nước diễn ra đồng thời với những thay đổi mạnh mẽ của lịch sử
thế giới. Các nước tư bản châu Âu đang trên đà phát triển kinh tế mạnh mẽ đòi hỏi
cần có những lượng thông tin, kiến thức khổng lồ về các nước châu Á, châu Phi
và châu Mỹ - những quốc gia đang còn “vô chủ” nhằm phục vụ cho quá trình cạnh
tranh mở rộng thị trường buôn bán và chiếm đoạt thuộc địa đang diễn ra khốc liệt.
Vì vậy mà, những thông tin tri thức về các quốc gia ở châu Á trong đó có Việt
Nam, đặc biệt là những thông tin mô tả về vùng biển, đảo Việt Nam cũng được đề
cập tương đối chi tiết trong các công trình địa lý, lịch sử bằng tiếng Anh
trong giai đoạn này.
Trong công trình xuất bản
năm 1727 tại Edinburgh (Scotland), tác giả Alexander Hamilton đã mô tả khá
chính xác về đặc điểm đường bờ biển Đàng Trong như sau “Đàng Trong có bờ biển dài
khoảng 700 dặm tính từ dòng sông của Campuchia tới Quambin (Quảng Bình), và nó
có nhiều hải cảng tốt rất tiện lợi dù chúng không thường xuyên được những người
xa lạ lui tới; và dọc theo bờ biển Đông, nó rất sâu, tại một số nơi tôi thấy
chiều sâu từ 60 đến 80 sải trong nửa hải lý tính từ bờ biển” (1). Từ thông tin
này cho chúng ta thấy, diện tích lãnh thổ Việt Nam phần Đàng Trong dưới sự cai
trị của các chúa Nguyễn ngay từ những năm đầu của thế kỷ XVIII đã thực sự làm
chủ vùng đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ trù phú với một đường bờ biển dài phía
Đông nhiều vũng vịnh, cảng biển sâu rất tốt và an toàn, thuận lợi cho giao
thông buôn bán đường thủy. Không chỉ có vậy, Alexander Hamilton còn chỉ ra và
mô tả các đảo ven bờ Đàng Trong tính từ Nam ra Bắc đồng thời đưa ra những cảnh
báo nguy hiểm cho các tàu thuyền khi di chuyển đến vùng biển này như sau: “Có một
số hòn đảo trên bờ biển này. Những đảo gần bờ biển không gây nguy hiểm.
PulloJecca de Terra (Cù lao Câu), nằm ở phía nam và gần bờ nhất. Hòn đảo này
không có người ở và trông chỉ giống như những bãi đá của Paracel mà không có
cây, bụi cây, hoặc cỏ. Tôi vượt qua một dặm ở đó và nó nằm khoảng một dặm từ bờ
biển. PulloJecca de Mare (Cù Lao Thu) và tất cả các chuỗi các hòn đảo trải dài
từ cụm đảo nguy hiểm Paracelcó vẻ nhiều đá hơn những hòn đảo khác. PulloCambir
(Cù lao Xanh) cách bờ biển khoảng 15 hải lý, gần quần đảo Hoàng Sa. Hòn đảo đó
không có người ở dù khá lớn. Pullo Canton (Cù lao Ré), nằm gần bờ biển, cũng
giống như các đảo của Champello (Champa) nhưng không có nguy hiểm. Có dòng chảy
mạnh chạy đến phía nam trong gió mùa Đông Bắc làm cho các thuyền trưởng phải
chú ý để duy trì gần bờ biển Đàng Trong vì sợ bị lái ra quần đảo Paracels, nơi
có chuỗi bãi đá nguy hiểm, dài khoảng 130 hải lý, rộng khoảng 15 hải lý và chỉ
có một số hòn đảo ở mỗi đầu. Có một số liên giòng giữa những bãi đá nhưng không
dấu hiệu rõ ràng về mối nguy hiểm; nhưng tôi biết một con tàu của người Anh từ
Surat đã vô tình đi qua chúng nhưng không biết và cũng không nhìn thấy mối nguy
hiểm của chúng cho đến khi nó đi qua, họ bất ngờ nhìn thấy bờ biển Đàng Trong”
(2). Điều thú vị là, ngoài việc mô tả các hòn đảo cùng những cảnh báo về sự biến
đổi của dòng hải lưu ven bờ vào mùa gió mùa Đông Bắc để các tàu thuyền phải chú
ý cẩn trọng tránh bị cuốn ra xa. Không chỉ có vậy, tác giả còn cho thấy mối
quan hệ giữa các đảo ven bờ với quần đảo Paracels (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa) cũng như mức độ nguy hiểm của những “chuỗi bãi đá” của hai quần đảo này đối
với tàu thuyền qua lại.
Đặc điểm đường bờ biển
cùng các hòn đảo ven bờ của Đàng Trong cũng được các tác giả của “The
Modern part of an Universal history from the earliest account of time”
đề cập đến khá ngắn gọn như sau: “Trước
khi chúng tôi rời khỏi vương quốc này, chúng tôi chắc chắn không được quên cung
cấp cho một bản kê ngắn gọn những hòn đảo lớn nhất thuộc về đất nước này: những
người bản địa đặt cho chúng cái tên là Pullos (Cù lao), và có một số lượng lớn
những hòn đảo dọc theo bờ biển như: 1. PulloSicca, là nơi cằn cỗi và không có
người ở, và trông giống như một nhóm các phiến đá khô cằn, không có cây hoặc một
ngọn cỏ. 2. PulloSecca de Mare, một chuỗi các hòn đảo cằn cỗi và đá khác, kéo
dài từ vùng nước nông nguy hiểm được gọi là Hoàng Sa. 3. PulloCambir, ở mười
lăm hải lý ngoài khơi tính từ bờ biển, nhưng gần vùng nước nông trên, và nó mặc
dù lớn nhưng cũng không có người ở. 4. Pullo Canton, nằm gần bờ biển, và ở khoảng
cách không xa so với Cam-Pello, cả hai nơi này dòng chảy chạy từ phương Nam lên
phía Bắc buộc các thủy thủ giữ khoảng cách xa nhất có thể và không thể tiếp cận
gần bờ biển” (3). Theo khảo cứu so sánh, đối chiếu của các học giả Việt
Nam và thế giới, tên gọi các hòn đảo ven bờ của nước ta do các nhà hàng hải, địa
lý Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha một phần từ phiên âm tiếng Chăm và tiếng Việt mà đặt
ra. Người Chăm vốn gọi các đảo ven bờ là “pu-lao” hoặc “pu-lau”. Trong quá
trình cộng cư lâu dài giữa hai cộng đồng người Việt và người Chăm, những từ
dùng để gọi các hòn đảo trong tiếng Chăm được Việt hóa thành “cù lao”, tức là
các hòn đảo, những bãi đá nổi lên khỏi mặt nước ở ven bờ biển Việt Nam. Và từ
đó, các nhà hàng hải, địa lý thế giới trong quá trình thám hiểm, thông thương
đã sử dụng những từ này phiên âm sang ngôn ngữ quốc tế thành “pullo”, “callau”,
“paulo” hoặc “pulo” để đặt cho các hòn đảo Việt Nam trong các cuốn nhật ký hải
trình, các công trình nghiên cứu địa lý, lịch sử lúc bấy giờ. Theo đó, PulloJecca de Terra dùng để gọi Cù lao
Câu thuộc tỉnh Bình Thuận ngày nay; PulloJecca de Mare tức là Cù Lao Thu, nay
là đảo Phú Quý của tỉnh Bình Thuận; PulloCambir
dùng để chỉ Cù lao Xanh, nay là xã đảo Nhơn Châu của Quy Nhơn, tỉnh Bình Định; Pullo Canton dùng để gọi Cù lao Ré, tức
huyện đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi ngày nay; PulloSicca dùng để chỉ chung cho hai hòn đảo là Cù lao
Thu và Cù lao Câu;Cam-Pello hay PulauChampa là tên gọi của Cù lao Chàm gồm
8 hòn đảo lớn nhỏ nay thuộc xã đảo Tân Hiệp của thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam. Cũng theo các học giả khảo cứu, ở giai đoạn này, Parcel, Paracel hoặc Paracels được
dùng rất phổ biến để gọi chung cho quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
mà chưa có sự phân biệt rõ ràng là Paracels (Hoàng Sa) và Spratly Island (Trường
Sa) như sau này.
Không chỉ dừng ở mức độ
kể ra đặc điểm bờ biển cũng như kể tên các hòn đảo ven bờ của Đàng Trong theo
thứ tự từ Nam ra Bắc, trong tác phẩm “The History of China. Upon the Plan of Mr
Rollin’s Ancient History (translated from the French)” xuất bản năm
1755 phần “The history of Cohinchina” ở chương 2 viết về Đàng Trong còn
cho biết “Đàng Trong được chia thành
năm hoặc sáu tỉnh và có biên giới với Đàng Ngoài… Đất nước này là nơi cư ngụ tốt,
và có một số thành phố nhưng đã được xây dựng một cách đầy dụng ý: Kinh đô của
vương quốc được gọi là Kehúe (Huế) và là nơi ở của nhà vua. Vương quốc này có một
số cảng biển tốt ở phía đông, dễ dàng tiếp cận và gần bờ có độ sâu 60 sải và ở
một số nơi đến 80 sải mà tàu có thể neo đậu. Dọc theo bờ biển, bạn thấy một số
hòn đảo thuộc về Đàng Trong… Những đảo này có nhiều cây hữu ích trong số đó có
cây Damar cho một loại nhựa như nhựa thông. Ở đây cũng phát triển các loại trái
cây, như xoài, các xạ hạt, coca rừng... Bờ biển của họ là nơi cung cấp hầu hết
các loại cá, đặc biệt là rùa, và người dân khai thác dầu và bán trên đất liền
(4). Từ những thông tin ngắn ngủi trên đề cập chưa được nhiều vấn đề biển, đảo
của Việt Nam nhưng chí ít cũng cho thấy vào khoảng thời gian này, Đàng Trong đã
thiết lập được 5 – 6 tỉnh với trung tâm là đô thành Huế và cư dân Đàng Trong
ngoài việc làm nông nghiệp thì hoạt động đánh bắt trên biển thực sự là một hoạt
động kinh tế khá quan trọng trong cuộc sống của họ. Bờ biển phía Đông của kinh
thành Huế có những cảng biển tốt rất thuận lợi cho việc cập bến, lưu thông hàng
hóa.
Sự chia cắt nhô ra thụt
vào của bờ biển Việt Nam tạo ra nhiều vũng vịnh và hải cảng tốt rất thuận lợi
cho việc giao thông giao thương đường biển. Tuy nhiên bên cạnh đó, bờ biển cùng
các đảo ven bờ cũng tạo nên không ít những khó khăn thậm chí là nguy hiểm cho
các tàu thuyền phương Tây khi họ chưa nắm rõ được quy luật hải văn của vùng biển
Việt Nam. Trong tác phẩm The History of China. Upon the Plan of Mr
Rollin’s Ancient History có ghi “Các đảo của Kondore có điểm đáng chú ý là có nhiều dải đá ngầm nguy hiểm
bên bờ biển của họ, mà những người châu Âu gọi là Paracelles; và các vụ đắm tàu
xảy ra thường xuyên đến nỗi mà nhà vua của Đàng Trong thấy phải cử một vài
tàu thuyền ra vào trong một mùa nhất định trong năm để tìm vớt hàng hóa và các
bộ phận của con tàu bị đắm. Trong năm 1714, tàu Arion - một con tàu buôn nổi tiếng
châu Âu, cũng đã bị mất tích trên các bờ biển này” (5). Kondore,
hay
Condor, Condore, Poulo Condore, Pullo Condore, Pulo Condor
là tên gọi của Côn Đảo mà các nhà hàng hải
phương Tây dùng để đặt cho hòn đảo này. Và vì vậy, có lẽ là nhầm lẫn khi cho rằng
Côn Đảo là một phần của quần đảo Paracels như tư liệu đã viết. Hoặc cũng có thể
do Côn Đảo gần với quần đảo Paracels ở ngoài khơi nên dẫn đến sự nhầm lẫn cho rằng
Côn Đảo là một đảo trong hệ thống các đảo, bãi đá, bãi cát của quần đảo này.
Đặc biệt, Pulo Canton (Cù lao Ré) với vị trí địa lý thuận
lợi được các tác giả đề cập đến không chỉ là điểm dừng chân tiếp nước ngọt, lương
thực trên hải trình từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài mà còn như là một tiền đồn, một
điểm nối giữa đất liền với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các cư dân Việt Nam
thời bấy giờ sinh sống trên Cù lao Ré thường ra Hoàng Sa và Trường Sa để khai
thác sản vật. Không dừng ở đó, nhà
nước phong kiến Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa vì “Cương
giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu”
(6)vì vậy chế độ phong kiến Việt Nam đã “Phủ
Quảng Ngãi, ở ngoài cửa biển xã Vĩnh An huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù lao Ré (…)
lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày đêm thì mới đến” (7) và “…họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất (…) cắt
phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng” (8) đồng
thời “Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải,
không định bao nhiêu suất (…)cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao
Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba,
bào ngư, hải sâm cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản”(9). Điều này cho thấy
ngay từ thế kỷ XVII, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà cổ sử Việt Nam thường gọi
là “Vạn Lý Trường Sa”, “Đại Trường Sa” hoặc “xứ Hoàng Sa” đã sớm được triều đại
phong kiến Việt Nam khẳng định và xác lập chủ quyền trên thực tế. Cù lao Ré – tức
Pulo Canton là hòn đảo có khoảng cách gần với quần đảo Paracels nhất nên đã được
triều đại phong kiến Việt Nam chú trọng trở thành nơi tuyển người vào đội Hoàng
Sa.
Vị trí địa lý của Cù
lao Ré không chỉ như “nhịp cầu” nối đất liền với quần đảo Paracelsvà án ngữ
trên tuyến hàng hải quốc tế lúc bấy giờ mà ở Cù lao Ré còn có đầy đủ điều kiện
như nước ngọt, lương thực thực phẩm có thể đáp ứng nhu cầu tiếp tế của thuyền
bè qua lại. Vì lẽ đó, hàng loạt tài liệu tiếng Anh đương thời cũng như các bản
đồ hàng hải khi đề cập đến các hòn đảo ven bờ đáng lưu ý đều không thể không đề
cập đến hòn đảo này với tên gọi là Pulo Canton. Đáng lưu ý, Macartney và George trong các
tác phẩm của mình xuất bản năm 1797 đã chỉ rõ “Pulo Canton, còn được gọi là
Pulo Ratan, có các điểm cực khá cao và vị trí thấp trung bình của nó làm cho nó
có sự xuất hiện của hai hòn đảo, được miêu tả vào ngày 22 tháng 5. Các đội tàu
hiện giờ nằm dọc bờ biển vương quốc Đàng Trong và họ đi lại giữa các bờ biển của
Đàng Trong tới các bãi đá, đảo nhỏ trong quần thể được gọi là quần đảo Paracels, nằm ở phía Bắc và phía Nam
khoảng gần 400 dặm” (10). Điều này cho thấy từ rất sớm,
không chỉ ở Cù lao Ré, các cư dân Việt Nam sống ven biển đã thực sự làm chủ ngư
trường Biển Đông. Các đội tàu thuyền mà Macartney và George đề cập đến chắc chắn
không chỉ của ngư dân mà còn là những đội tàu thuyền thuộc chính quyền phong kiến
Việt Nam lập ra thay phiên nhau đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để khai thác
sản vật cũng như thu lượm những đồ đạc mà những tàu thuyền bị đắm dạt vào các đảo,
bãi đá của hai quần đảo này.Trong “India
Dirctory, or Directions for sailing to and from the East Indies, China,
Australia, Cape of Good Hope, Brazil and the Interjacent ports” Vol
II,
tác giả James Horsburgh còn miêu tả kỹ lưỡng hơn về Cù lao Ré
như sau “Pulo Canton, còn được người
bản địa gọi
là Cu Lao Ray
(tức Cù Lao Ré), nằm ở vĩ tuyến 15,23 độ Bắc, kinh tuyến 109,6 độ đông hoặc 4,38 độ Tây từ
Grand Ladrone khi đo bằng máy đo hằng hải, nằm ở khoảng cách 4 hải lý từ mũi đất
Batantan, và bờ biển đối diện với nó nằm chếch về phía Bắc của mũi đất. Hòn
đảo này
có kích cỡ đáng kể, có thể thấy rõ từ khoảng cách khoảng 9 hải lý từ boong của
một tàu lớn và có một vẻ bằng phẳng khi được quan sát từ phía Nam: ở phía Tây,
nó có người sinh sống, trồng trọt tốt, và ở đây còn có nước ngọt. Một bãi đá ngầm
nhô ra từ phía đầu Đông Nam của hòn đảo
(bãi đá Mù Cu ngày nay – TG), và về phía Bắc, có những xoáy nước phía dưới là đá, trải
dài khoảng một hải lý tính từ vị trí của nó tới Low Island (tức cù lao Bờ Bãi,
nay là xã An Bình của huyện đảo Lý Sơn
- TG)
nằm ở phía Tây Bắc của Pulo Canton. Ở phía Đông Nam của những hòn đảo này không
nên tiếp cận gần vì cho dù nó không được biết tới là nơi nguy hiểm nhưng có những
xoáy nước khoảng từ 7 tới 15 sải nằm trải dài khoảng 2 đến 3 hải lý về phía Bắc
của Pulo Canton. Sang phía Nam Đông Nam 4 hải lý, có khu vực nước sâu 50 sải”
(11). Từ
những thông tin trên của James Horsburgh
cho thấyvị trí địa lý của Cù lao Ré cùng Cù lao Bờ Bãi và bãi đá Mù Cu cùng đặc
điểm hải lưu vùng biển giữa Cù lao Ré và đất liền cũng như vùng biển ngoài hòn
đảo này được mô tả khá rõ ràng và tương đối chính xác. Đặc biệt trong công
trình này, tác giả còn đề cập đến mũi đất Batantan mà người Việt gọi là mũi đất
Ba Làng An (thuộc huyện Bình Châu của Quảng Ngãi ngày nay), nơi vươn ra biển
Đông gần với quần đảo Hoàng Sa nhất của Việt Nam tính từ trong đất liền.
Bên
cạnh đó, các phương tiện và hoạt động đánh bắt hải sản gần bờ của ngư dân Việt
Nam thời bấy giờ cũng được người châu Âu ghi chép lại khá chi tiết cũng như cho
thấy phản ứng của ngư dân khi gặp những tàu thuyền nước ngoài, đặc biệt là tàu
phương Tây khi đi vào vùng biển của Việt Nam: “Nhiều thuyền nhỏ đã được nhìn thấy đang đánh bắt cá
giữa các tàu và đất liền. Những cái gần nhất đã tới để có thể có một ai đó
trong số ngư dân này làm người dẫn đường vào vịnh Toron (Đà Nẵng), một cảng
chính thuộc Đàng Trong. Nhưng những thuyền này không có ý tiếp cận và nhanh
chóng rút lui khi thấy những chiếc tàu lạ. Tuy nhiên, một trong những chiếc
thuyền nhỏ đã bị vượt qua bởi một chiếc tàu và một ngư dân trên đó đã được chuyển
lên tàu” (12).
Tầm
quan trọng của bờ biển, hải cảng, các vũng vịnh của Việt Nam càng ngày càng được
các tác giả đề cập đến chi tiết. Trong tác phẩm “A System
of Geography, Ancient and Modern”
nổi tiếng của mình, James
Playfair đã mô tả “Dọc theo bờ biển có nhiều cảng biển với vị trí thuận
lợi cho giao thương nhưng lại không được thường xuyên sử dụng bởi người nước
ngoài. Một trong số những cảng đáng chú ý nhất được cư dân ở đây gọi là Hoyan (Hội
An), hoặc Han, người Bồ Đào Nha gọi là Faifo, hoặc Foy-Foe, và người Anh gọi là
Toron (Đà Nẵng), ở 160 7’ vĩ độ Bắc, với chuyến đi hết một vài ngày về phía
đông nam Sinhoa (Huế). Nơi đây có vùng nước đủ độ sâu nên tàu thuyền có thể di
chuyển một cách an toàn. Lối vào của nó là cửa của một con sông bắt nguồn từ
vùng núi của Lào, và rất dễ dàng. Đây là nơi giao thương lớn nhất, sầm uất nhất
trong vương quốc, và nơi thường xuyên lui tới của các thương gia Trung Quốc. Ở
tỉnh Quinhin (Quy Nhơn) có bến cảng an toàn và tấp nập có tên là Nuocman(là cảng
Thị Nại bây giờ -TG), nghĩa là Cảng nước biển, nhưng không ở vị trí thuận tiện
như Faifo (Hội An). Có một số cảng nhỏ khác, đặc biệt là ở Naulang; nhưng chúng
đều không an toàn và không sâu cho tàu trọng tải lớn đồng thời ở khoảng cách
quá xa bờ biển” (13) . Những cảng vịnh được đề cập
ở trên, trong các thế kỷ XVII – XVIII và nửa đầu XIX thực sự khá nhộn nhịp
không chỉ có sự hiện diện của các thương nhân Trung Hoa vốn từ lâu thường xuyên
sang nước ta buôn bán mà còn đón tiếp rất nhiều thương nhân cùng tàu thuyền của
họ đến từ châu Âu. Đặc biệt trước đó, Đàng Trong dưới sự cai quản của các chúa
Nguyễn với chính sách phát triển kinh tế cởi mở hơn Đàng Ngoài nên đã thu hút
được rất nhiều thương gia các nước đến làm ăn buôn bán, thậm chí là lập nên các
thương điếm của mình ngay trên đất Đàng Trong. Điều này đã thúc đẩy cho sự hình
thành và phát triển của các Cảng thị ven sông, ven biển phục vụ cho giao thương
trong vùng và giữa Việt Nam với nước ngoài.
Không
chỉ dừng ở đó, James Playfair
còn cho biết sự tiện lợi bằng giao thông đường thủy trong nội địa Việt Nam cũng
như các đô thị quan trọng hình thành bên các con sông, đặc biệt là kinh đô Huế:
“Trong vương quốc này không có trường thành bao quanh, nhưng có nhiều thành trì
và làng mạc nhỏ. Huế, hoặc Whay, còn được gọi là Uzangues, Sin-hoa, và
Tcheatchen, là thủ đô và là một thành trì lớn được xây dựng với nhiều ý nghĩa,
nơi có các cung điện hoàng gia và một số chùa ở khoảng cách 40 dặm về phía bắc
Touron(Đà Nẵng), gần một con sông lớn trước đây đủ sâu cho tàu trọng tải lớn;
nhưng do một trận ngập lụt khủng khiếp vài năm trước mà các bãi cát được hình
thành ở cửa sông nên chỉ có tàu thuyền nhỏ qua lại được. Đô thành này, học theo
cách thức của người Trung Quốc, được chia cắt bởi kênh rạch, để tạo thuận lợi
cho vận chuyển buôn bán cũng như cho sự tiện lợi của người dân” (14). Và trong các Cảng thị của Việt Nam lúc
bấy giờ, Đà Nẵng được các nhà hàng hải, thương gia châu Âu đặc biệt coi trọng
vì sự thuận tiện và an toàn của nó đối với loại thời tiết vốn rất thất thường,
thường xuyên có gió bão và mưa lớn: “vịnh lớn và an toàn của Touron(Đà Nẵng),
như đề cập ở trên, trong đó Lord Macartney thả neo vào tháng 26 năm 1793, gần một
bãi bồi có hai đỉnh cao. Nó gồm một hòn đảo nhỏ. Cửa sông là ở điểm cực nam của
vịnh. Thành đô, nằm một dặm trong nội địa, có các nhà ở thấp, được xây dựng bằng
tre và che phủ bằng cây bấc hoặc rơm lúa. Xung quanh thành là những vườn cam,
chanh, chuối, …. Phía trên thành đô là một thung lũng màu mỡ lấy nước từ dòng
sông. Kamois (dãy Trường Sơn), một dãy núi, kéo dài dọc theo biên giới phía
tây, tách vương quốc này với Lào và Campuchia”
(15). Chính vì vị trí thuận lợi đặc biệt
như vậy mà cảng vịnh Đà Nẵng sau này trở thành sự lựa chọn tấn công xâm lược Việt
Nam đầu tiên của thực dân Pháp vào năm 1858.
Hoặc
như trong “A System of Geography for the use of school on an
entirely new plan” của Thomas Keith biên
soạn dùng để giảng dạy trong các trường học của Anh viết: “Đàng Trong kéo dài dọc theo biển Trung Quốc từ
Tonquin (Đàng Ngoài) đến Tsiompa (Champa). Nó bao gồm một đồng bằng dài, giữa bờ
biển và dãy núi chạy song song với bờ biển. Vùng đồng bằng rất màu mỡ, và sản
xuất tất cả các loại trái cây nhiệt đới, gạo và đường. Các khu rừng cung cấp hồng
gỗ, gỗ mun, sapan, gỗ sandal, bàng gỗ, và calambac. Các thị trấn chính là
Ke-Hòa (Huế), Faifo (Hội An), và Turon (Đà Nẵng), trên những vịnh cùng tên”
(16).
Còn David Brewster thì cho biết “Rất nhiều hòn đảo nhỏ, nằm dọc theo bờ biển của
nước này, có khả năng cung ứng những vật phẩm xa xỉ theo yêu cầu rất lớn tại
Trung Quốc, còn được gọi là Trepan, hoặc Bichos da mer hay là một loài sên biển.
Số lượng lớn các động vật nhỏ này cũng được thu thập trên bờ biển phía bắc của
New Holland, và mang đến thị trường Trung Quốc. Thuyền trưởng Flinders, người
được gửi đi trên một hành trình khám phá đến bờ biển đó, đã thấy rằng không ít
hơn sáu mươi tàu đã thực hiện một chuyến hành trình hàng năm một cách thường
xuyên với mục đích duy nhất là thu thập các sản phẩm biển trong suốt hai mươi
năm trước. Sau khi được tách ra từ những phiến đá, chúng được mở ra, rửa sạch bằng
nước ngọt và được đun sôi, sau đó sấy khô trong khói của gỗ màu xanh lá cây, gần
giống như cách thức nấu cá trích đỏ của chúng ta” (17).
Còn Côn Đảo, một đảo nằm ở phía Nam Việt Nam cũng được đề cập khá chi tiết “Hòn đảo này được gọi là Pulo – Condor (Côn Đảo), hoặc
"đảo Calabashes" nằm ở phía nam của Nam Kỳ, bốn mươi bốn dặm từ cửa
sông của Campuchia. Nói cho đúng hơn đó là một nhóm các đảo, trong đó có một bến
cảng có khả năng giữ tám tàu neo đậu tốt và rộng rãi... Đảo này sản xuất lúa và
một số loại trái cây, đặc biệt là chuối, bưởi, và bầu bí. Đó là một nơi phù hợp
cho một trạm quân sự và bến giao thương”
(18).
Như
vậy, từ sự khảo cứu các thông tin được phổ biến từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ
XIX đề cập đến biển và các đảo ven bờ của Việt Nam dưới thời chúa Nguyễn đến
triều đại Tây Sơn và sau đó là vương triều Nguyễn cho chúng ta thấy vùng biển
và các đảo ven bờ Việt Nam với vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi về giao thương
hàng hải đã trở thành nơi cập cảng thường xuyên của các tàu buôn, các thương
gia phương Tây trên con đường hải thương trọng yếu từ Tây sang Đông và ngược lại.
Chính vì nhờ vị trí quan trọng như vậy, những vấn đề về địa lý, lịch sử cùng
các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở giai đoạn này được
người châu Âu tìm hiểu và phản ánh khá chi tiết. Những kiến thức về Việt Nam
trong đó có đặc điểm vùng biển cùng các đảo, quần đảo giúp cho phương Tây đánh
giá, nhìn nhận mảnh đất, một thị trường tiềm năng còn “vô chủ” trước sự thèm
khát mở rộng thị trường tiêu thụ cũng như hệ thống thuộc địa của họ.
2.2 Mức độ nguy hiểm của
quần đảo Paracels trong tuyến hải thương quốc tế
Biển Đông từ rất sớm đã trở thành ngư trường
truyền thống của ngư dân Việt Nam. Ngay từ những thập niên đầu thế kỷ XVII, cùng
với việc phát hiện ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, triều đại phong kiến
Việt Nam đã sáp nhập hai quần đảo này vào lãnh thổ quốc gia và khẳng định chủ
quyền một cách liên tục của mình trong khi chưa hề có quốc gia nào phát hiện và
tuyên bố chủ quyền. Đồng thời, triều đại phong kiến Việt Nam còn tiến hành đo đạc
vẽ bản đồ, thành lập các đội quản lý khai thác sản vật và các đồ vật từ các con
tàu bị đắm, lập miếu, trồng cây, đặt bia chủ quyền tại đây.Quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trên tuyến hàng hải quốc tế quan trọng đặc biệt
vì vậy mà trong quá trình thám hiểm của người châu Âu, hai quần đảo này sớm được
đề cập ghi chép trong các cuốn nhật ký hải trình cũng như thể hiện trên các tấm
bản đồ với cái tên Paracels và phổ biến thành kiến thức hàng hải phục vụ cho
quá trình buôn bán từ phương Tây sang phương Đông. Mặc dù đề cập đến hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa muộn hơn các tài liệu tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp
…nhưng các tài liệu địa lý, lịch sử xuất bản bằng tiếng Anh ở thế kỷ XVIII đến
giữa thế kỷ XIX lại có vị trí quan trọng không kém vì chúng không chỉ góp phần
cung cấp kiến thức về địa lý, lịch sử của các vùng đất ngoài châu Âu trong đó
có Việt Nam, mà quan trọng hơn, những tài liệu này đa phần đều là những công
trình khoa học nổi tiếng lúc bấy giờ được phổ biến sử dụng rộng rãi, góp phần
vào việc thừa nhận chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Trong
thực tế, quần đảo Paracels được đề cập trong các tư liệu nước ngoài không chỉ
tiếng Anh ở các thế kỷ XVII – XIX dùng để chỉ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam ở giữa Biển Đông mà chưa có sự phân biệt rõ ràng là Paracels (Hoàng
Sa) hay Spratly Island (Trường
Sa) như sau này. Điều này cho thấy “nhận thức của các nhà hàng hải thời xưa về
Hoàng Sa và Trường Sa lúc đầu rất mơ hồ; họ chỉ biết có một
khu vực rộng lớn rất nguy hiểm cho tàu thuyền vì có những bãi đá ngầm. Ngày xưa
người Việt Nam gọi là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn Lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc
Vạn Lý Trường Sa các sách và bản đồ cổ của Việt Nam đã chứng tỏ. Hầu như tất cả
các bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đều vẽ
chung quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa làm một dưới cái tên Pracel,
Prcel hay Paracels” (19). Quần đảo Paracels(tức Hoàng Sa và Trường Sa) không chỉ
thể hiện trong các công trình lịch sử, địa lý và nhật ký hàng hải mà còn thể hiện
rất rõ ràng thông qua hàng loạt bản đổ của người phương Tây lúc bấy giờ[1].
Khi
đề cập đến quần đảo Paracels (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam), người
châu Âu đặc biệt nhấn mạnh đến mức độ nguy hiểm của chúng và đưa ra những cảnh
báo khá cụ thể đối với các tàu thuyền khi di chuyển qua vùng Biển Đông có hai
quần đảo này. Trong “A new account of the East Indies, being the
observation and remarks, vol II”,
Alexander
Hamilton cho biết “Trong Anno 1690, một
con tàu Bồ Đào Nha đã bị đắm trên một trong những hòn đảo phía bắc của quần đảo
Paracels, và tất cả đều bị mất tích nhưng ba hoặc bốn người đã bơi được vào bờ.
Có rất mảnh vỡ của con tàu theo sau họ, và một số hộp đựng bột đã vô tình bị
ném lên bờ, nhờ đó mà họ đã được hỗ trợ từ chúng” (20). Alexander Hamilton cũng mô tả khá tỉ mỉ
về việc những người này phải xoay sở tìm mọi cách để sống sót ra sao: “họ đã dựng một túp lều băng những loại gỗ và
ván họ có thể sử dụng cho mục đích đó, và họ đã tìm thấy một số nước ngọt trong
các hang đá, và ở một nơi họ xây dựng một bể chứa nước để chứa nước mưa cho mùa
khô. Họ đã lấy cỏ trộn với bùn mà họ tìm thấy ở bờ biển của đảo, và đặt hỗn hợp
trong một vật nhẹ thuận tiện để giữ lại nước mưa, họ đã sống theo cách đó trong
một mùa khô. Thực phẩm của họ là đồ biển, và những con rùa mà thường xuất hiện ở
đảo với số lượng lớn. Trong ba năm họ đã chết chỉ còn sót lại một người, và
trong Anno 1701, một con tàu trên đường đi Maccao (Ma Cao) đến gần quần đảo không
theo ý muốn của họ đã nhìn thấy hình ảnh của một người đàn ông vẫy tay,… họ có
lòng tốt và di chuyển thuyền của họ đến đảo. Họ rất sửng sốt khi người đó là một
trong những đồng hương của họ, ngạc nhiên hơn nữa khi ông nói với họ về bất hạnh
của mình, và ông đã sống được bao lâu một mình trên hòn đảo đó. Họ mặc quần áo
và cho ông ta ăn rồi đưa ông ấy tới Ma Cao. Tôi đã gặp ông ta vào năm Anno 1703
và đã có bản ghi lại lời của chính ông ta” (21).Điểm
lưu ý ở đây chính là sự kiện con tàu bị đắm của người Bồ Đào Nha vào năm 1690
làm cho tất cả thủy thủ đoàn bị chết chỉ còn lại vài ba người may mắn sống sót
khi được sóng đánh dạt vào bờ cùng với các đồ vật của con tàu và cuối cùng chỉ
còn một người tồn tại trong suốt khoảng thời gian gần 11 năm. Trong thời gian
này, người ta không có bất kỳ một cách nào để có thể thoát ra khỏi hòn đảo đó
và chỉ được cứu khi một con tàu khác đi đến Ma Cao và bị dòng hải lưu cuốn đến
gần quần đảo Hoàng Sa vào năm 1701. Điều này càng chứng tỏ vào thế kỷ
XVII-XVIII, các tàu thuyền phương Tây vẫn thực sự chưa biết nhiều về đặc điểm của
các dòng hải lưu ở Biển Đông cũng như sự nguy hiểm rình rập họ ở quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Trong khi đó, hai quần đảo này lại có vị trí đặc biệt là nằm
trên tuyến hải thương quan trọng từ phương Tây sang phương Đông. Vì vậy, các
tàu thuyền lựa chọn biện pháp an toàn hơn, đó là đi theo ven bờ biển Việt Nam khi
đó là Đàng Trong (Cochin-china) và Đàng Ngoài (Tonquin) hơn là mạo hiểm đi xa bờ
để bị các dòng hải lưu mạnh mẽ cuốn về phía quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nơi
tồn tại hàng loạt những bãi đá ngầm và những bãi cát lên xuống theo thủy triều.
Sang
thế kỷ XIX, những thông tin khá chính xác về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam càng được các tài liệu tiếng Anh ghi nhận và phổ biến. Tác giả Thomas
Pennant đã viết ở mục “The Paracels” như sau “Quần đảo Paracels: Nằm dọc bờ biển của Cobin-China là quần đảo Paracels,
một vùng rộng lớn với đá, rạn san hô, đụn cát, và các đảo nhỏ, trải dài từ Bắc
vào Nam từ 120 10’ kinh độ Bắc đến 160 45’ kinh độ Bắc với
276 dặm chiều dài và 60 dặm chiều rộng. Về phía đông bắc của cực bắc là một
nhóm các rạn san hô nhỏ và đá, được gọi là tam giác (triangles), và chếch một
chút về phía đông nam của nó là một tập hợp những vùng lớn có hình dạng bất thường
được gọi là bãi cát ngầm Macclesfield,… đây chính là không gian phổ biến của
các tàu thuyền của chúng ta để đi về phía Trung Quốc; họ đi giữa bờ biển
Cobin-China và quần đảo Hoàng Sa, cho đến khi họ nhìn thấy các đảo của
Campellos (Cù lao Chàm) ở vĩ độ 160 10’. Từ đó họ vượt qua núi cao,
hiểm trở chiêm ngưỡng toàn cảnh thiên nhiên của đế chế vĩ đại” (22). Hoặc là “Quần
đảo Paracels tạo thành một chuỗi dài các hòn đảo nhỏ với đá và bãi cát ngầm,
song song với bờ biển của Cochin-China” (23). Như vậy,
cho đến những năm đầu của thế kỷ XIX, người châu Âu vẫn đặc biệt coi vùng Biển
Đông rất nguy hiểm và cách lựa chọn tốt nhất đối với các tàu thuyền khi phải đi
qua vùng biển này là bám theo ven bờ biển Việt Nam và không nên ra quá xa để khỏi
bị các dòng đối lưu mạnh mẽ kéo ra vùng nguy hiểm thuộcParacels(tức hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa), nơi có các vùng nước nông sâu đầy bất ngờ cùng các bãi
đá, bãi cát ẩn hiện trong nước biển.Đặc biệt ngoài những thông tin về
hai quần đảo ngoài khơi Việt Nam, trong “Modern
Geography: A Description of the empires, kingdoms, stares, and colonies with
the oceans, seas, and Isles in all parts of the world: including the most
recent discoveries, and political, alterations, digested on a new plan” còn
có hai bản đồ hàng hải: một tấm bản đồ về châu Á trong đó vẽ quần đảo Paracels
sát vào lãnh thổ Việt Nam; một tấm bản đồ vẽ riêng về lãnh thổ Việt Nam. Trong
tấm bản đồ vẽ về lãnh thổ Việt Nam gồm Đàng Trong và Đàng Ngoài cùng các đảo
ven bờ, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ sát vào lãnh thổ Việt Nam dưới
cái tên Paracels (24). Đây là bằng chứng quan trọng khẳng định quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam và đã được các quốc gia đương nhiên thừa nhận.
Sự cảnh báo nguy hiểm về
giao thông đường biển khi đi qua Biển Đông được công trình Bách khoa toàn thư
Anh “EncyclopaediaLondinensis or Universal Dictionary of Arts, Sciences and
Literature, Vol IV” ghi rõ khi viết về Paracels như sau: “Các tàu Anh đã có một thời gian sát cánh
trong vương quốc Đàng Trong. Khoảng giữa giữa bờ của nó với vô số các hòn đảo
nhỏ và đá - được gọi là quần đảo Paracels- đã hình thành một cụm kéo dài nằm ở
phía bắc và phía nam cho gần bốn trăm dặm, không phải là không có nhiều nguy hiểm
và cần phải thận trọng đáng kể để bảo vệ và chống lại ảnh hưởng của dòng chảy
hướng về phía những tảng đá yên tĩnh,.. chống lại bão lực mà ở các vùng biển,
được gọi là bão và những cơn bão lớn ở Đại Tây Dương; cả hai đều giống nhau về
độ mạnh của gió và trong sự chuyển hướng đột ngột của nó”
(25).Đây
thực sự chính là một loại thời tiết đặc trưng của Biển Đông và vì vậy nó đã gây
ra rất nhiều vụ đắm tàu thuyền khi di chuyển trên vùng biển này. Những xác tàu
cùng đồ vật kèm theo những con tàu thường bị sóng đánh dạt về quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Đó là lý do tại sao hàng năm các triều đại phong kiến Việt Nam lại
phái các đội thủy quân, ngư dân ra Hoàng Sa thu lượm đồ vật cùng với khai thác
sản vật.
Charles Knightkhi viết ở mục “Cochin – China” cũng đưa ra cảnh báo về mức độ nguy
hiểm của vùng Biển Đông, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa đối với các tàu thuyền
khi qua lại trên vùng biển này của Việt Nam “Trong gần 400 dặm kéo dài dọc theo bờ biển này là cụm bãi cát ngầm Paracel
mà có thể được mô tả như một lục địa tràn, nằm ngay dưới mặt nước. Giữa bãi cát
ngầm và bờ biển còn lại một đoạn hẹp tàu bè đi lại được, nơi mà liên tục được sử
dụng bởi các tàu thuyền trong các vùng biển này” (26).
Vị
trí địa lý của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam càng về sau càng được
các nhà hàng hải, các nhà địa lý châu Âu quan sát, đo đạc và ghi chép lại, ví
như “Về phía đông, gần bờ biển, ở 150 vĩ tuyến Bắc là một chuỗi các hòn đảo nhỏ,
hoặc các loại đá và bãi cát ngầm, được gọi là quần đảo Paracels, khoảng 100 hải
lý (1 hải lý = 4km) từ Bắc vào Nam, và chiều rộng khoảng 15 hải lý; xa hơn nữa
là có một nhóm các bãi cát ngầm được gọi là lunettes ở 170 vĩ tuyến
Bắc” (27). Hay là “Các Pracel hay còn gọi là quần đảo Paracels, là một
mê cung của các đảo, đá, và vùng nước nông, trong đó, theo bảng xếp hạng đã được
phê chuẩn nhất, kéo dài một đường song song với bờ biển Việt Nam, giữa vĩ độ bắc
100 45’ đến 160 30’, và khoảng 1090 kinh độ
đông. Nhưng một số nhà hàng hải người Pháp đã vượt qua một phần của không gian
này mà không gặp phải bất kỳ đá hay vùng nước nông, từ đó chúng ta có thể kết
luận rằng quần đảo này trong thực tế không rộng như nó xuất hiện trong các bản
đồ của chúng ta” (28).
Đặc
biệt khi biên soạn công trình “Gazetteer of The World, or Dictionary of
Geographical Knowledge, compiled from the most recent authorities”,
Hiệp hội Địa lý hoàng gia Anh đã khẳng định: “Quần đảo Paracels, một tập hợp các đảo, đá ở vùng biển Trung Quốc, mở rộng
từ 150 46’ và 170
8’ vĩ tuyến Bắc và giữa 1110
10’ tới 1120 44’ kinh độ Đông. Cách đảo Hainau (Hải Nam –
Trung Quốc) 150 dặm về phía Đông Nam, và cách một khoảng tương tự tính từ bờ biển
phía đông của Đàng Trong. Chúng tạo thành nhiều nhóm, chủ yếu là các đảo thuộc
Discovery, Amphitrite và Voadore. Về mặt chính trị, quần đảo (tức quần đảoParacels)
này thuộc về vương triều An Nam. Đây là quần đảo với nhiều loài rùa và cá, một
số hòn đảo lớn còn được che phủ bởi rừng. Quần đảo là nơi khai thác, đánh bắt
cá của cư dân Đàng Trong” (29).Đây là công trình khoa học địa lý nổi
tiếng lúc bấy giờ với độ chính xác và tin cậy cao. Việc các nhà địa lý của Hiệp
hội địa lý hoàng gia Anh thừa nhận quần đảo Paracels (Hoàng Sa và Trường Sa)
thuộc chủ quyền của Việt Nam dưới triều Nguyễn càng khẳng định tính pháp lý
không thể chối cãi về quyền làm chủ của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa mà các triều đại phong kiến Việt Nam xác lập, làm chủ và khẳng định
trước đó.
Từ sự cung cấp các
thông tin của các công trình địa lý, lịch sử bằng tiếng Anh ở thế kỷ XVIII đến
giữa thế kỷ XIX cho chúng ta thấy, quần đảo Paracels (Hoàng Sa và Trường Sa) được
mô tả khá kỹ lưỡng cũng như khẳng định sự nguy hiểm của nó trong tuyến hàng hải
từ Tây sang Đông và ngược lại. Mặc dù những đo đạc về vị trí địa lý của hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của các nhà hàng hải, các nhà địa lý học lúc bấy giờ
còn chưa chính xác nhưng cũng không sai lệch đáng kể so với kết quả của khoa học
hiện nay. Không chỉ có vậy, điều đáng nói ở đây chính là, tất cả những ghi chép
mô tảcùng các bản đồ vẽ về Paracels chỉ được đề cập khi nói đến Cochin-china,
Cobinchina hoặc Couchin-china, tức là Đàng Trong của Việt Nam. Điều này chứng tỏ
rằng các quốc gia phương Tây đương nhiên mặc định thừa nhận chủ quyền của Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2.3
Ngư dân Việt Nam khai thác hải sản và sản vật trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa (Paracels)
Mặc
dù hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa với những bí ẩn và nguy hiểm lớn uy hiếp đến
sự an toàn của các tàu buôn phương Tây nhưng trên thực tế thì vùng Biển Đông và
hai quần đảo này từ rất lâu trước đó đã trở thành ngư trường đánh bắt hải sản của
ngư dân Việt Nam và được các triều đại phong kiến Việt Nam khẳng định chủ quyền.
Cư dân Việt ven biển đã chinh phục hoàn toàn Biển Đông bằng chính các con thuyền
của mình. Điều này được hàng loạt các tài liệu ghi nhận.
Hàng
năm, các ngư dân Việt Nam thường xuyên ra Hoàng Sa và Trường Sa để đánh bắt hải
sản và thu lượm các đồ vật của các con tàu đi qua vùng biển này bị đắm dạt vào hai
quần đảo này. Đặc biệt, theo sự mô tả của các tài liệu tiếng Anh lúc bấy giờ
thì trên đảo Hoàng Sa còn có những loại sản vật rất quý và có giá trị trên thị
trường đó là đồi mồi, rùa biển và tổ chim yến. Trong “A Voyage to Cochin China in the
years 1792 and 1793”, John
Barrow đã mô tả khá chi tiết về việc các ngư dân Đàng Trong dùng“các thuyền được sử dụng
trong thương mại hằng hải, trong nghề đánh bắt cá, và những thuyền thu các bẫy
hoặc thu hoạch tổ yến trên các cụm quần đảo được gọi là Paracels có hình dáng rất
đa dạng: nhiều thuyền trong số đó giống như của Trung Quốc, có nhà trải bạt cho
toàn bộ gia đình sinh sống; và những thuyền khác, giống như thuyền buồm phổ biến
của người Mã Lai, cả về thân tàu và cách bài trí; Thuyền buôn với nước ngoài của
họ được đóng dựa trên mô hình tương tự như các thuyền buồm Trung Hoa, hình thức
và đóng tàu chắc chắn không được thực hiện theo tiêu chuẩn hoàn hảo của kiến
thức hàng hải; tuy nhiên vì họ đã sinh sống hàng ngàn năm không thay đổi nên
họ chí ít cũng được tôn trọng dù rất ít vì những sự phát minh cổ xưa của
mình...” (30). Từ đó chúng ta thấy, các loại thuyền bè
mà cư dân Việt Nam thường sử dụng lúc bấy giờ là thuyền mui trần, thuyền mui có
mái và thuyền buồm. Mặc dù vậy có lẽ chỉ loại thuyền buồm và thuyền mui có mái
mới được các ngư dân Việt Nam sử dụng trong đánh mắt xa bờ, còn thuyền mui trần
dùng để đánh bắt ven bờ.
Các sản vật được ngư
dân Việt Nam khai thác trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng được các
tài liệu đề cập đến khá chi tiết, đó là “tổ yến được thu thập với số lượng lớn trên cụm lớn các đảo chạy song song
với bờ biển, và được biết đến trong hải đồ có tên là quần đảo Hoàng Sa; các
Bichos do Mar (tiếng Pháp dùng để gọi hải sâm -TG), hoặc rắn biển hoặc đúng hơn
là sên biển, và thường được gọi là Trepan (trong tiếng Malaysia cũng có nghĩa
là hải sâm - TG) trong ngôn ngữ thương mại, cùng với vây cá mập, hay mỡ cá voi
biển, và hải sản khác dạng mềm ...” (31). Hoặc “Những dãy thuyền của họ mang lại niềm vui là những chiếc thuyền khá tốt,
dài từ 50 đến 80 feet, và được tạo nên từ những tấm ván đơn tốt, mỗi tấm kéo
dài từ đầu này đến đầu kia. Họ sử dụng các loại thuyền khác nhau trong thương mại
hàng hải, trong đánh bắt cá, và trong việc thu thập các loại biche-de-mer(hải
sâm), và tổ của loài chim yến trong cụm đảo gọi là quần đảo Paracels. Nhiều tàu
trong số đó có nhà phía trên được trải bạt, theo đó một gia đình liên tục cư
trú” (32).
Đặc biệt, các tài liệu
nhấn mạnh đến tổ yến, một trong những sản vật mà người Việt khai thác tại Hoàng
Sa và Trường Sa và cũng là sản vật được cư dân châu Á nói chung và khu vực Đông
Nam Á đặc biệt coi trọng vì sự bổ dưỡng của nó “Trên các đảo chạy dọc với bờ biển của
Cochinchia, và được biết đến trong bản đồ với cái tên là quần đảo Paracels, một
vật phẩm có giá trị xuất khẩu khác được tìm thấy là những chiếc tổ được tạo ra
bởi một con chim nhỏ giống kích thước của chim yến của chúng ta, và được gắn bằng
một loại keo, các lớp khác nhau trong đó có thể được tách ra theo cách tương tự
như các lớp của củ hành. Khi chất keo này được hòa tan trong nước ấm, nó được sử
dụng làm gia vị cho món cá và món ăn các loại; với nước sốt nó cũng truyền một
hương vị tinh tế, và do đó nó trở thành một vật phẩm có giá trị trên thị trường
Trung Quốc. Những hòn đảo này cũng có rất nhiều loài rùa, với hương vị tuyệt hảo
đến nỗi để có được chúng, những người dân nước này và các nước láng giềng phải mặc
cả quyết liệt” (33).Điều này cho thấy, tổ yến thu hoạch
từ Hoàng Sa không chỉ được dùng trong hoàng cung của các hoàng đế Việt Nam mà
còn trở thành một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị cung cấp cho thị trường lúc
bấy giờ bởi sự nổi tiếng về chất lượng của nó.Tương tự như vậy, Thomas Keith mô
tả “Những thành
phố trung tâm của Cochinchina là Ke-Hoa (Huế), Faifo (Hội An) và Turon (Đà Nẵng).
Quần đảo Paracels và các đảo nhỏ khác trên bờ biển có rất nhiều tổ chim yến;
các tổ được hình thành bởi một chất dẻo có thể được sử dụng để nấu súp và được
người Trung Quốc rất coi trọng. ..” (34).“Quần đảo Paracels, là một chuỗi các hòn đảo
nhỏ đối diện với bờ biển này, là nơi thường xuyên lui tới của các ngư dân
Cochin-china, việc tìm kiếm, theo dõi các tầu thuyền này được coi trọng bởi những
người đồng hương của họ” (35).Những thông tin ghi
chép về việc người Việt Nam ra khai thác sản vật hoặc nhắc đến các sản vật ở
Hoàng Sa và Trường Sa khi đó được gọi là Paracels như một đặc điểm nhận biết của
hai quần đảo này có ở hầu hết các tài liệu tiếng Anh đương thời cho chúng ta thấy
sự quan tâm lưu ý của người phương Tây đối với hai quần đảo ngoài khơi của Việt
Nam trên tuyến hải thương quốc tế lúc bấy giờ.
Nhìn chung, các tài liệu
trên không chỉ cung cấp cho chúng ta biết vị trí địa lý, mức độ nguy hiểm của
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như một số đặc điểm thời tiết của vùng đảo
biển này mà quan trọng hơn chúng thuộc về chủ quyền của quốc gia Việt Nam từ sớm.
Cư dân Việt Nam là người đầu tiên phát hiện ra hai quần đảo này và thường xuyên
ra đó khai thác sản vật, đánh bắt hải sản. Trong các loại sản vật thu hoạch từ
Hoàng Sa và Trường Sa, ngoài các loại hải sâm, rùa biển, … đáng kể nhất là tổ yến
được hình thành từ nước bọt của loài chim này.
3.
Một số nhận xét
Trải qua hàng thế kỷ
lâu dài chinh phục và làm chủ, biển Đông và các đảo ven bờ cũng như hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được các vương triều phong kiến Việt Nam khẳng định chủ
quyền và là ngư trường truyền thống của cư dân Việt. Biển, đảo ở Biển Đông là
không gian sinh tồn của cư dân Việt Nam. Điều này không chỉ thể hiện trong các
nguồn tư liệu địa lý, lịch sử trong nước mà còn được khẳng định bởi sự thừa nhận
của các quốc gia lúc bấy giờ thông qua sự phản ánh trong hàng loạt các cuốn du
ký, nhật ký hải trình và các công trình nghiên cứu, các loại bản đồ cổ châu Âu
từ thế kỷ XVIcho đến sau này.
Từ những ghi chép về lịch
sử, địa lý Việt Nam bằng tiếng Anh ở thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, đặc biệt
là những ghi chép về vùng biển, đảo và các quần đảo của Việt Nam của các nhà địa
lý, hàng hải và các học giả phương Tây ở giai đoạn này cho chúng ta biết được,
Việt Nam từ sớm đã được các quốc gia phương Tây để ý không chỉ bởi Việt Namcó vị
trí đặc biệt nằm trên lộ trình hàng hải quan trọng bậc nhất từ châu Âu sang
châu Á. Màcũng như các quốc gia trong khu vực, Việt Namcòn là vùng đất vẫn chưa
được khám phá và “vô chủ” đối với quá trình mở rộng thị trường và xâm lược thuộc
địa đang diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.Mặc dù vậy, tất cả các tư liệu đều
trực tiếp hoặc gián tiếp khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời cũng chỉ ra vị trí địa lý, đặc điểm nhận diện
các đảo ven bờ, đặc biệt là mối quan hệ giữa Cù lao Ré với Hoàng Sa, Trường Sa
cùng những nguy hiểm của nó đối với các tàu thuyền khi đi ngang qua vùng biển của
Việt Nam.
Dương
Hà Hiếu
Chú
thích
(1), (2), (20),
(21). Alexander Hamilton: A new account of the East Indies, being the observation and remarks, Vol
II. Printed by John Mosman One of his Majesty’s Printer, and fold at the King’s
Printing-house in Craig’s Clofs, Edinburgh, Scotland, UK, 1727, pp.208, 209,
209, 210.
(3). The
Modern part of an Universal history from the earliest account of time,Vol VII. Printed for S.Richardson, T.
Osborne, C. Hitch, A. Millar, John Rivington, S. Crowder, P. Davey and B. Law,
T. Longman, and C.Ware, London, England, 1759, pp.450.
(4), (5). The History of China. Upon the Plan of Mr
Rollin’s Ancient History (translated from the French). Printed for J. and
P. Knapton in Ludgate-stress, London, England, 1755, pp.338, 339.
(6). Quốc sử quán Triều
Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr. 867
(7), (8), (9). Lê Quý
Đôn: Phủ biên tạp lục, Tổng tập Dư địa chí Việt Nam, Tập 3, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội, 2007, tr.389, tr392, tr392
(10).
Macartney,
George: An Abridged account of the embssy
to the emperor of China. Printed for John Stockdale, Piccadilly, London,
England, 1797, pp.100 -101;
Macartney,
George: An Historical account of the
embssy to the emperor of China. Printed for John Stockdale, Piccadilly,
London, England, 1797, pp.152.
(11).James Horsburgh: India Dirctory, or Directions for sailing to
and from the East Indies, China, Australia, Cape of Good Hope, Brazil and the
Interjacent ports, Volume Second. London, W.H. Allen and Co., Booksellers
to the honouradle East India company, No7, Leadenhall street, 1836,
pp.319.
(12),
(25).
EncyclopaediaLondinensis
or Universal Dictionary of Arts, Sciences and Literature,
Vol IV. Printed for the Proprietors, by J. Adlard, Duke stress, west
smithfield: sold at the encyclopaedia office, avemaria lane, st. Paul’s, by J.
white, fleet stress and champante and whitrow, jewy stress, aldgate, London,
England, 1810, pp.725,
725.
(13),
(14), (15), (27). James
Playfair:A System of
Geography, Ancient and Modern, Vol V. Printed for
Petter hill, Edinburgh and J. Murray, Fleet street, London, England, 1813,
pp.636 – 637.
(16),
(34).
Thomas
Keith: A System of Geography for the use
of school on an entirely new plan. Printed for Longman, Rees, Orme, Brown,
and Green; R. Scholey; Sherwood and Co.; G.B. Whittaker and Hamilton, Adams and
Co., London, England, 1826,
pp.267,
268.
(17),
(33).
David
Brewster: The Edinburgh Encyclopaedia:
Science and the Arts, in eighteen volumes, Vol VI. Published by Joseph,
Edward Parker, William Brown, Printer, Philadelphia, USA, 1832,
pp.560.
(18),
(28). M. MalteBrun, James G. Percival: A System of Universal Geography, or a
description of all the parts of the World, on a new plan according to the great
natural, divisions of the globe, accompanied with analytical, synoptical and
elementary tables, Vol I. Printed and published by Samuel Walker, Boston,
USA, 1834, pp.550.
(19).
Ủy ban biên giới Quốc gia: Về chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. In trong Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam (tái bản lần 1). Nxb Trẻ, tp Hồ Chí Minh, 2012,
tr.12
(22). Thomas
Pennant: The view of the India extra
Gangem, China and Japan, Vol III. Printed by Luke Hanfard, Great Turnstile,
Lincoln’s Inn Fields; and sold by John White, Horace’s head, fleet street,
London, England, 1800,
pp.71.
(23),
(24). John Pinkerton, S. Vince: Modern Geography: A Description of the empires, kingdoms, stares, and
colonies with the oceans, seas, and Isles in all parts of the world: including
the most recent discoveries, and political, alterations, digested on a new plan,
Vol II. Published by John Conrad, and Co. Philadelphia; M. and J. Conrad and
Co. Baltimore, Rapin, Conrad and Co. Washington City; Somervell and Conrad,
Petersburg; Bonsal, Conrad and Co. Norfolk; Bernard Dornin, New York; Whiting,
Bachus, and Whiting, Albany; Samuel Pleasants, Richmond; Beers and howe, New
Haven; Crow and Query, Charleston, S.C. H. Maxwell, Printer, No 25, North
Second Stress, London, England,
1804, pp.178;
John
Pinkerton, S. Vince: Modern Geography: A
Description of the empires, kingdoms, stares, and colonies with the oceans,
seas, and Isles in all parts of the world: including the most recent
discoveries, and political, alterations, digested on a new plan. Printed
for T. Cadell and W. Davies, Strand; and Longman, press, and ormr, Paternoster
Row, London, England, 1806,
pp.392,
394.
(26). Charles
Knight: Geography or First Division of
“The English Encyclopedia”, Volume II. Bradbury, evans, and Co, 11,
Bouverie St., Fleet St., E.C. Scribner, Welford, and Co., 654, Broadway, New
York, London, England, 1866, pp.321.
(29). A
Member of the Royal Geographical Society: Gazetteer
of The World, or Dictionary of Geographical Knowledge, compiled from the most
recent authorities, Vol V. A Fullarton and Co. Stead’s place, edinburgh,
106 Newgate stress, London and 22 Eustace street, Dublin, 1856,
pp.779.
(30). John
Barrow: A Voyage to Cochin China in the
years 1792 and 1793: Containing a general view of the valuable productions and
the political importance of this flourishing kingdom, and also of such european
settlements as were visited on the voyage. Printed for T. Cadell and W.
Davies in the Strand, London, England, 1806, pp.319.
(31). C.
Taylor: The Literary panorama: A review
of books, A register of events, A magazine of varieties comprising interesting
intelligence from various districts of the United Kingdom; The British connections
in The East Indies, The West Indies, America, Africa, western Asia & c. and
from the Continent of Europe, Vol I. Printed by Cox, Son, and Baylis, Great
Queen street, London, England, 1807, pp50-51.
(32).
The
Encyclopaedia Britannica a Dictionary of Arts, Sciences, and General
Literature, Eighth edition, Vol VII. Adam and Charles Black,
Edinburgh, Scotland, 1854, pp.49-50;
Napier:
The Encyclopaedia Britannica, or
Dictionary of Arts, Sciences, and miscellaneous literature, Seventh edition, Volume VII, part I. Printed for
Adam and Charles Black, Edinburgh (Scotland); Simpkin and Marshall, Whittaker,
treacher, and Co, and Hamilton, Adams and Co, London (England); John Cumming,
Dublin (Ireland), 1842, pp.13.
(35). Edward
Smedley, Hugh James Rose, Henry John Rose: EncyclopaediaMetropolitana
or Universal Dictionary of Knowledge, Volume XVI. B. Fellowes, F. and J.
Rivington, Duncan and malcolm, suttaby and co; E. Hodgson, J.Dowding, G.
Lawford, J.M. Richardson, J. Bohn, T. Allman, J. Bain, S. Hodgson, F.C.
Westley, L.A. Lewis, T. Hodges and H. Washbourne, Also J.H. Parker and T.
Laycock, Oxford; and J, And J.J. Deighton, Cambridge, London, England,
1845, pp.780.
On
the ancient maps, in the voyage diary, or in the works of the world geography
and history long time ago, specific records on Vietnam’s islands were already
made. This article aims at studying these notes in materials published in
English from the eighteenth century to the mid-nineteenth century so as to
provide more awareness of the world of the sea, coastal islands, as well as two
offshore archipelagos of Vietnam,
Paracels and Spratlys. It can be said that this is a kind of invaluabble
material to be exploited in research on Vietnam’s territorial sovereignty.
[1]Xem
thêm Trương Minh Dục (2014). Chủ quyền quốc
gia Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa qua tư liệu Việt Nam và nước
ngoài. Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội; Trần Công Trục (2014). Dấu ấn Việt Nam trên Biển Đông. Nxb
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội; Nguyễn Thừa Hỷ, Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (Paracels) thế kỷ XVIII – XIX qua nguồn
tư liệu phương Tây, in trong Nguyễn Văn Kim (Cb – 2011), Người Việt với biển.
Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.473 - 505; Monique Chemillier – Gendreau (1998). Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa (Sách tham khảo). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 61.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét