Trang

Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2010

Sự ra đời và những nội dung triết lý căn bản của Phật giáo (p1)

Phn 1:
Đạo Pht và nhng ni dung tư tưởng cơ bn ca pht giáo
 
1. Hoàn cnh Ấn Độ trước khi ra đời đạo Pht.
Là một bán đảo lớn nằm ở phía nam châu Á, Ấn Độ được ví như một tam giác hay “củ khoai lang” khổng lồ cắm vào đại lục Á châu. Phía bắc ấn Độ là dãy Himmalaya dài trên 2.500 Km sừng sững ngăn cách ấn Độ với vùng Trung Á. Nó được coi là bức tường thành vững chắc phân chia khí hậu của ấn Độ. Ba mặt còn lại của ấn Độ giáp với biển ấn Độ Dương làm cho vùng đất này hầu như cách biệt với thế giới bên ngoài và chỉ thông thương được bởi một số đèo nhỏ ở phía bắc và một số eo vịnh đường biển. Chính điều này làm cho lịch sử ấn Độ cổ đại có những đặc điểm khác các quốc gia cổ đại khác trên thế giới.
Toàn bán đảo ấn Độ được chia thành 3 vùng với những đặc điểm khác nhau rõ rệt. Khu vực phía Bắc gồm dãy Himmalaya và thung lũng Catxmia khổng lồ. Vùng đồng bằng sông ấn và sông Hằng rộng lớn là đồng bằng lớn vào bậc nhất thế giới và là vựa lúa lớn nhất châu Á. Sông ấn dài khoảng 3000 Km, sông Hằng dài hơn 3000 Km. Hai con sông này có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của lịch sử ấn Độ. Nhà nước ấn Độ sơ khai ra đời tại đồng bằng những con sông này. Phía nam là cao nguyên Đêcan rộng lớn khí hậu khắc nghiệt không thuận lợi cho sự phát triển nghề nông trồng lúa nước nhưng lại có nhiều khoáng sản và đất đai lại thích hợp cho trồng các loại cây công nghiệp.
Khí hậu ấn Độ có sự phân hóa cách nhật rõ rệt ở từng vùng. Vùng núi phía Bắc thời tiết lạnh, khô. Các đỉnh của dãy Himmalaya luôn có tuyết ngự trị. Người ấn Độ tin tưởng rằng chính trên đỉnh những dãy núi quanh năm tuyết phủ đó là nơi ngự trị của các thần linh như thần Brama – Visnu – Shiva…Vùng đồng bằng ấn – Hằng rộng lớn bao la được trời phú cho khí hậu tốt đẹp hơn những vùng khác nhưng nhiệt độ ở vùng này chênh lệch rất lớn giữa ngày và đêm (ngày có thể gần 40 0 nhưng đêm chỉ còn dưới 100) và giữa các mùa cũng vậy (mùa đông nhiệt độ chỉ khoảng 200 nhưng mùa hè tì lên đến 40 - 450). Vùng cao nguyên Đêcan ở phía nam quanh năm nóng nực nhưng nhiệt độ lại không cao và độ dao động không lớn như hai vùng trên.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của ấn Độ rất phong phú và đa dạng: có núi cao – biển rộng – sông dài; có đồi núi – cao nguyên -  sa mạc và đồng bằng phì nhiêu. Những điều kiện tự nhiên đó có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nền văn minh của ấn Độ: ở miền bắc phát triển hơn miền nam; vùng ven biển phát triển hơn trong lục địa hình thành nên sự phân chia địa vị con người trong xã hội ấn Độ cổ đại và tồn tại cho đến tận ngày nay. Có thể nói không nơi nào trên thế giới lại có sự phân chia khắc nghiệt về địa vị con người hơn ở đây.
Vấn đề dân cư của Ấn Độ vô cùng phức tạp. Cho đến nay không thể lý giải một cách đầy đủ và chính xác được nguồn gốc cư dân của quốc gia này vì sự pha trộn và đồng hóa tộc người ở đây diễn ra rất mạnh mẽ. Gần đây, dựa vào những thành tựu của Cổ nhân loại học, Dân tộc học…, các nhà khoa học mới chỉ phác thảo ra được những nét lớn đầu tiên về nguồn gốc dân tộc ấn Độ như sau:
Cư dân cổ nhất và xuất hiện sớm nhất ở ấn Độ có lẽ là người da đen thuộc chủng Negroit với đặc điểm là da đen, tóc quăn, môi dầy. Sau đó là người Vdavida thuộc chủng Oxtraloit: da nâu, tóc thẳng đen. Họ di cư vào đây khoảng thiên niên kỷ III T.Cn với sự tiến bộ của công cụ lao động đồ đồng thau. Họ chính là chủ nhân của nền văn minh đầu tiên của ấn Độ. Ngày nay, người Vdavida chiếm khoảng 20% dân số ấn Độ.
Vào giữa thiên niên kỷ II T.Cn, một bộ phận người Arya da trắng nói ngữ hệ ấn Âu tràn vào đồng bằng sông ấn và sau đó là sông Hằng. Những cuộc di cư đó diễn ra liên tục trong một thời gian dài làm cho dân số người Arya đông lên. Hiện nay, họ chiếm khoảng 70% dân số ấn Độ. Sau đó, vùng đất rộng lớn ấn Độ liên tiếp đón nhận những cư dân mới là người ả Rập – Hung Nô - Mông Cổ đến định cư.
Tất cả những tộc người này trong quá trình sinh sống đã đồng hóa tạo thành một sự pha trộn văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng thành dân tộc ấn Độ ngày nay.
2. Khái quát v lch s n Độ trước khi đạo Pht ra đời.
Gọi là nền văn minh sông ấn do tìm thấy dấu tích khảo cổ ở lưu vực con sông này: hay còn gọi là văn minh Harapa – Mohengiôđagô theo tên các di chỉ khảo cổ phát hiện ở 2 thành phố
Trước đây người ta cho rằng lịch sử của ấn Độ bắt đầu khi người Arya tràn vào ấn Độ. Nhưng nay nhờ vào thành tựu của khảo cổ học được khai quật vào năm 1921 – 1922 phát hiện được ở 2 thành phố này những nền nhà, cung điện, lăng tẩm vùi sâu trong cát và hơn 3000 con dấu khắc những phù hiệu khác nhau giống chữ tượng hình, công cụ lao động…. những di tích ở 2 thành phố này cho ta những nét cơ bản về lịch sử ấn Độ từ thiên niên kỷ II đến thiên niên kỷ II T.Cn.
            Về trình độ phát triển thời kỳ này cư dân ấn Độ đã biết sử dụng công cụ lao động bằng đồng thau. Những xương trâu – bò và ngũ cốc cũng được phát hiện tại hai di chỉ khảo cổ học trên cho thấy hoạt động kinh tế cư dân ấn Độ là nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc gia cầm. Họ cũng đã biết đến nghề  thủ công làm đồ gốm và đồ trang sức, công cụ lao động sản xuất. Những dấu tích của nghề này như những mảnh gốm nung, đồ trang sức cho thấy thủ công nghiệp cũng rất phát triển. Bên cạnh đó, các nhà Khảo cổ học còn tìm thấy những quả cân bằng đá và đi đến nhận định rằng hoạt động buôn bán cũng đã xuất hiện và khá phát triển.
Như vậy, tất cả những phát hiện quý báu trên cho phép chúng ta suy đoán về xã hội ấn Độ cổ đại bắt đầu từ 3000 năm đến 1500 năm T.Cn và chủ nhân của nền văn hóa đầu tiên này là do người Vdavida xây dựng nên. Đây là một trong những nền văn hóa, văn minh cổ nhất trên thế giới. Tuy nhiên, khoảng giữa thiên niên kỷ II T.Cn, nền văn hóa này đi vào lụi tàn tất cả chìm vào trong cát bụi.
Cho đến nay có nhiều ý kiến về sự biến mất của nền văn hóa này:
+ Do sự xâm nhập của người Arya.
+ Do mâu thuẫn giữa bội bộ những người Vdavida.
+ Do lũ lụt của con sông ấn tàn phá (do các nhà khảo cổ tìm thấy 2 thành phố này nằm trong cát bụi song không thể xác định vào thời gian nào thì bị phá hủy).
+ Do hạn hán – khô nóng kéo dài sa mạc hóa cả vùng rộng lớn trong đó có 2 thành phố.
+ Do xảy ra vụ thiên thạch rơi tàn phá rơi vào quyên lãng. Nếu như vậy thì không thể còn nguyên vẹn như đã khai quật.
Vào khoảng giữa thiên niên kỷ II. T.CN, những bộ lạc người Arya đã xâm nhập vào ấn Độ. Họ đến mảnh đất mới này khi nền văn hóa của người Vdavida đang đi vào tàn lụi. Người Arya là những cư dân chăn nuôi du mục chưa có tổ chức nhà nước đang ở tình trạng liên minh các bộ lạc với chế độ dân chủ quân sự trình độ thấp kém hơn người Vdavida rất nhiều.
Cuộc xâm nhập của người Arya diễn ra dài 2 –3 thế kỷ. Lúc đầu chỉ là những đợt di dân hòa bình. Càng về sau, dân số người Arya ngày càng đông nên đã dẫn đến xung đột với người bản địa Vdavida để tranh giành vùng đất màu mỡ của hai con sông. Trong cuộc tranh giành nguồn sống lâu dài này, người Arya đã đẩy người Vdavida bản địa xuống phía Nam làm chủ lưu vực sông ấn rồi tràn qua sông Hằng. Đến đây, người Arya đã làm chủ toàn bộ những khu vực giàu có và thuận lợi nhất.
Cùng sự xâm nhập, người Arya đã xây dựng những trung tâm văn hóa của họ ở lưu vực sông Hằng. Và như vậy, nền văn minh ấn Độ chuyển từ sông ấn sang sông Hằng. Người Arya đã xây dựng hàng loạt các tiểu quốc của mình ở dọc lưu vực sông Hằng trong đó có 2 quốc gia hùng mạnh nhất là Magada và Kosala. Chính sự ra đời các tiểu quốc này đã thúc đẩy người Arya làm nên những thành tựu của nền văn minh sông Hằng - nền văn minh thứ hai trong lịch sử ấn Độ cổ đại.
Khi tràn vào ấn Độ, người Arya lạc hậu hơn người Dravida bản địa. Để thống trị người Đraviđa, họ đã tạo ra hệ thống những quan điểm ngăn cách và thần thánh hoá chúng thành chế độ phân biệt đẳng cấp dựa trên màu da gọi là chế độ Varna (còn gọi là chế độ chng tính). Không ở đâu sự phân chia đẳng cấp lại diễn ra dai dẳng và khắc nghiệt như ở ấn Độ.
Chế độ đẳng cấp Varna chia xã hội ra thành những tầng lớp với địa vị, quyền lợi khác nhau:
+ Đẳng cp Braman: là những tăng lữ. Theo đạo Bà la môn, họ được thần Brama tạo ra từ miệng. Họ có nhiệm vụ giảng dạy kinh Vêđa và cúng tế các thần thánh. Đây là đẳng cấp cao quý nhất trong xã hội ấn Độ cổ đại.
+ Đẳng cp Ksatrya: là tầng lớp quý tộc vũ sỹ. Họ có nhiệm vụ cai trị dân và dâng lễ vật cho thần thánh. Đẳng cấp này được tạo ra từ cánh tay của thần Brama.
+ Đẳng cp Vaisya: là tất cả những người bình dân Arya. Họ có nhiệm vụ lao động sản xuất ra của cải vật chất, cung cấp những thứ cần thiết cho những đẳng cấp trên. Theo đạo Bà la môn, đẳng cấp Vaisya được tạo ra từ bắp đùi thần Brama.
+ Đẳng cp Sudra: là tất cả những người Đraviđa bị thống trị. Họ được tạo ra từ gót chân của thần Brama cho nên họ không có bất kỳ quyền lợi gì mà phải làm thuê để sống và phục vụ những đẳng cấp trên.
Trong 4 đẳng cấp thì 3 đẳng cấp trên là người Arya thống trị còn đẳng cấp thứ tư là toàn bộ những người Dravida bị trị. Về quan hệ, giữa những đẳng cấp này có những quy định rất nghiêm ngặt, đặc biệt là ba đẳng cấp trên với đẳng cấp thứ tư.
Tuy nhiên, trong xã hội ấn Độ cổ đại, ngoài bốn đẳng cấp trên còn có một tầng lớp người không được coi là người. Họ không được sống trong làng, không có quyền có tài sản, con cái, không được vào làng vào ban ngày và làm những việc mà bốn đẳng cấp trên cho là nhơ bẩn, ô uế… Đó là tầng lớp Parya. Họ là kết quả của những cuộc tình trai gái khác đẳng cấp. Họ bị xã hội khinh rẻ và cấm không được động chạm đến bốn đẳng cấp trên (kể cả hình bóng của 4 đẳng cấp trên cũng không được dẫm đạp lên). Họ là những kẻ “cm s mó”.
Chính tên của tầng lớp người “cấm sờ mó” Parya sau này được Nguyễn Ái Quốc lấy làm tên cho tờ báo viết về nhân dân các thuộc địa: Le Paria (tức những người cùng khổ).
Cơ sở pháp lý của chế độ đẳng cấp Varna là bộ luật hà khắc Manu do giai cấp thống trị người Arya đặt ra. Chế độ đẳng cấp Varna là hệ thống các quan hệ phân biệt về màu da, chủng tộc hết sức hà khắc bất công…..tạo ra vết rạn nứt sâu sắc trong xã hội ấn Độ cổ đại. Chế độ này tồn tại dai dẳng và là một nét độc đáo của lịch sử xã hội ấn Độ. Và đạo Bàlamôn đã ra đời để nhằm duy trì sự trường tồn của chế độ đẳng cấp Varna trong xã hội.
Sau này khi đạo Phật ra đời, đạo Bàlamôn đã phải tự cải biến cho thích hợp thành đạo Hin đu giáo hay còn gọi là ấn Độ giáo. Và, chế độ đẳng cấp Varna cũng vì thế mà đỡ khắc nghiệt hơn cải biến thành chế độ đẳng cấp Cacta: chế độ phân biệt dòng dõi, giai cấp theo nghề nghiệp, sở thích…
Đạo Bàlamôn xuất hiện từ thiên niên kỷ I. T.Cn khi người Arya làm chủ phần lớn bán đảo ấn Độ hình thành trên cơ sở nhiều tín ngưỡng nguyên tủy không có người sáng lập. Giáo lý của đạo này nằm trong kinh Vê đa.
V ni dung:
Đạo Bàlamôn thờ thần Brama là chúa tể các thần và cảu muôn loài. Thần là đắng tối cao sáng lập ra vận vật và vũ trụ. Đặc biệt, thần đã tạo ra chế độ đẳng cấp Varna bao gồm bốn đẳng cấp. Bằng truyền thuyết về sự sáng tạo ra các đẳng cấp trên. Đạo Bàlamôn đã góp phần đặc biệt trong việc khoác lên chế độ đẳng cấp Varna một tấm áo siêu linh màu sắc thần bí mà con người không thể cưỡng lại được.
Dưới thần Brama là thần Visnu và Shiva. Người ấn Độ rất yêu quý hai vị thần này do quan niệm mọi sự vật đều sinh ra và mất đi  tái tạo lại. Brama có nghĩa là “đầu tiên”, “hơi thở”, “đấng tối cao”. Thần có thể biến dạng thành nhiều hình thể khác nhau như người năm đầu, … thường ngồi trên quả trứng hoặc con rắn…
Đạo Bàlamôn tuyên truyền cho sự tuyệt đối không bao giờ thay đổi của 4 đẳng cấp trong xã hội ấn Độ cổ đại, bảo trợ cho sự bất bình đẳng tồn tại.
Tuyên truyền cho thuyết luân hồi và điểm báo: sau khi con người chết đi có thể đầu thai vào kiếp khác. Kẻ nào ở kiếp này tội lỗi chống lại giai cấp thống trị hoặc không tin vào thần thánh thì kiếp sau bị đày xuống tầng lớp dưới hoặc bị biến thành súc vật nhằm ngăn chặn sự phản kháng của các đẳng cấp thấp, duy trì chế độ xã hội đương thời với sự thống trị của người Arya.
Đạo Bàlamôn thực hiện tế lễ rất xa xỉ, giết chết hàng trăm – hàng ngàn gia súc gọi là lễ hiến sinh. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến lao động sản xuất và đời sống nhân dân ấn Độ cổ đại (ban đầu trong lễ hiến tế của đạo này còn giết cả người). Họ quan niệm giết gia súc và dâng đồ hiến tế nhiều bao nhiêu thì được thần linh phù hộ bấy nhiêu.
Như vậy, đạo Bàlamôn ra đời cùng chế độ đẳng cấp Varna và luật Manu nhằm bảo vệ những đặc quyền của giai cấp trên của người Arya và uy hiếp tinh thần của các đẳng cấp dưới, đặc biệt là đẳng cấp Sudra vốn là cư dân Vdavida bản địa, ngăn chặn mọi sự chống đối, phản kháng của đẳng cấp dưới đối với đẳng cấp trên. Trong bối cảnh đó, trào lưu chống lại chế độ đẳng cấp (còn gọi là chế độ chủng tính) ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt khi các nhà nước cổ đại ra đời, trào lưu phản ứng chống lại chế độ đẳng cấp Varna và đạo Bàlamôn ngày một khốc liệt trong cư dân ấn Độ cổ đại thuộc những đẳng cấp dưới.
Thực chất của phong trào đấu tranh này là nhằm chống lại sự miệt thị, phân chia chủng tộc giữa người xâm lược và người bị xâm lược, giữa người Arya trình độ văn minh thấp và người Vdavida trình độ văn minh cao. Lúc này do sự phát triển về kinh tế, văn hoá và xã hội, đẳng cấp Ksatrya dần nhận thức được vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Họ thấy cần thiết phải đấu tranh nhằm giành lấy một vị trí xứng đáng hơn. Còn hai đẳng cấp Vaisya và Sudra cũng do kinh tế phát triển, đời sống của họ được cải thiện khá hơn nên đòi hỏi cần có sự cải thiện ít nhiều về thân phận của mình trong xã hội. Dần dần những mâu thuẫn trong xã hội vốn ấp ủ lâu đã bộc phát thành một trào lưu, một phong trào nhằm chống lại “cái xiềng” chế độ đẳng cấp Varna do đạo Bàlamôn và luật Manu bảo trợ.
Xuất phát từ những mâu thuẫn trên, vào thế kỷ VI. Tcn, đạo Jaina (còn gọi là đạo Thiền) và các trường phái triết học duy vật sơ khai chống lại chế độ đẳng cấp đã ra đời. Đạo Jaina chủ trương rằng con người muốn siêu thoát thì hành động và suy nghĩ phải đúng đắn trong sáng không được ham muốn quá nhiều.
Cũng trong hoàn cảnh đó, đạo Phật đã ra đời và ảnh hưởng sâu sắc từ giáo lý của đạo Jaina. Ngay từ đầu, đạo Phật ra đời chưa phải là một tôn giáo đúng nghĩa mà thực chất nó là một phong trào cải cách xã hội. Bởi vì, đạo Phật chủ trương thay đổi lại vị trí của con người trong xã hội, đòi hỏi quyền cho các giai cấp dưới được tham gia vào các nghi lễ tôn giáo chứ không chỉ thuộc về đẳng cấp trên Braman.
Bên cạnh đó, đạo Phật ra đời còn do nhu cầu của sự phát triển xã hội. Các quốc gia sơ khai của người Arya hình thành nhiều đã đặt ra vấn đề cần phải thống nhất không chỉ về lãnh thổ đất nước mà còn về tư tưởng, tôn giáo. Trong khi đó, tín ngưỡng đa thần giáo lại tồn tại rất phổ biến ở mỗi tiểu quốc, mỗi cộng đồng người. Và như vậy, đạo Phật ra đời không chỉ là một yêu cầu bức thiết của xã hội mà còn là đòi hỏi của lịch sử.

5 nhận xét:

Nặc danh nói...

bài viết khá hay và chuẩn xác

Dương Hà Hiếu nói...

Cám ơn bạn!

Cúc Trinh nói...

Bài viết của chú thật sự rất ý nghĩa,con đã có cái nhìn kĩ hơn về chế độ Varna. Cho con hỏi một ý kiến nho nhỏ thôi ạ,hiện nay chế độ Varna còn tồn tại không ạ? Cảm ơn chú ạ!

Dương Hà Hiếu nói...

Đứng trước sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của Phật giáo, chế độ đẳng cấp Varna - hay còn gọi là chế độ chủng tính - và đạo Bà La Môn đã phải tự "đổi mới" mình để giảm thiểu đi những luật lệ, quy định hà khắc vốn có của nó. Và trong quá trình vận động đó, Bà La Môn phát triển thành Hinđu giáo (hay còn gọi là Ấn Độ giáo). Chế độ đẳng cấp Varna (và luật Manu) hà khắc vốn bảo trợ cho sự phát triển của đạo Bà La Môn vì lẽ đó cũng phải thay đổi thành chế độ Cacta. Khác với chế độ đẳng cấp Varna, chế độ Cacta phân chia xã hội Ấn Độ thành các "cacta" (hiểu nôm na là giai cấp) dựa trên nghề nghiệp, sở thích chứ không còn dựa trên sự phân biệt về nguồn gốc chủng tính, màu da...
Hi vọng vài dòng bổ sung trên giúp ích được cho bạn trong quá trình học tập và nghiên cứu về Lịch sử - văn hóa Ấn Độ.

HOÀNG nói...

Đề nghị tác giả nghiên cứu lại nhé. Tôi được biết chữ Cacta (Kasta, Kaxta) có nghĩa là đẳng cấp. Một từ dùng chung chỉ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ. Còn trong lịch sử Ấn Độ chế độ đẳng cấp tồn tại rất dài từ khi người Arya vào cho đến tận ngày nay (mặc dù hiến pháp Ấn Độ cấm phân biệt nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại. Ở Ấn độ có 2 giai đoạn đẳng cấp (Cacta) gồm 2 giai đoạn là Varna tương đương với thời kỳ Bà La Môn giáo nhưng khi chuyển sang giai đoạn Hin Du giáo thì chuyển sang chế độ đẳng cấp Jaity phân chia đẳng cấp theo nghề nghiệp chứ không phải chủng tính như thời Varna. Jaity chia theo nghề nghiệp, chính trị. Thời Gupta có bao nhiêu nghề thì có bấy nghiêu Jaity